Sự đóng góp của ngành ngân hàng đối với tăng trưởng xanh, kinh tế xanh thể hiện ở 2 khía cạnh cơ bản. Thứ nhất, là cầu nối giữa các tổ chức, cá nhân, giữa bên thừa vốn và thiếu vốn; tham gia vào quá trình đánh giá và quản lý rủi ro các dự án đầu tư, bao gồm cả rủi ro môi trường. Thứ hai, bản thân hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng tác động trực tiếp tới môi trường bằng việc ứng dụng công nghệ để phi chứng từ hóa các phương tiện thanh toán, áp dụng ngân hàng điện tử trực tuyến...
Theo đó, ngành ngân hàng đóng vai trò trọng yếu trong việc “xanh hóa” dòng vốn đầu tư, định hướng nguồn lực tài chính vào những lĩnh vực xanh, hạn chế dòng vốn vào những dự án gây ảnh hưởng tới môi trường; góp phần thúc đẩy các khách hàng vay vốn chuyển đổi dự án và mục đích sử dụng vốn vay sang các dự án thân thiện với môi trường.
Như vậy, các chính sách tín dụng xanh là một giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu tiết kiệm năng lượng và giảm khí thải độc hại, hướng nền kinh tế tới mục tiêu tăng trưởng xanh.
Chính sách hướng tới tăng trưởng xanh
Thực hiện nhiệm vụ số 37 tại Quyết định số 403/QÐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã xây dựng và ban hành một số văn bản quy định về tín dụng phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường, giảm phát thải carbon, hướng tới tăng trưởng xanh, cụ thể:
Ban hành Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường - xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; ban hành Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020 tại Quyết định số 1552/QÐ-NHNN ngày 6/8/2015.
Lồng ghép nội dung về định hướng phát triển tín dụng xanh - ngân hàng xanh vào nội dung của Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với Quyết định số 986/QÐ-TTg ngày 8/8/2018; ban hành Ðề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam tại Quyết định số 1604/QÐ-NHNN ngày 7/8/2018 với mục tiêu tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống ngân hàng đối với việc bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, từng bước xanh hóa hoạt động ngân hàng, hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ dự án thân thiện với môi trường, thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Lồng ghép các yêu cầu về bảo vệ môi trường vào quy định hiện hành về hoạt động cho vay của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Khoản 1, Ðiều 4 - Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016; theo đó, quy định về nguyên tắc cho vay hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng phải phù hợp với các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
NHNN đã phối hợp với Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) ban hành hướng dẫn TCTD thực hiện đánh giá rủi ro môi trường - xã hội trong hoạt động cấp tín dụng cho 10 ngành kinh tế có rủi ro môi trường - xã hội cao nhất (Sổ tay đối với 10 ngành: Nông nghiệp, hóa chất, xây dựng cơ sở hạ tầng, năng lượng, thực phẩm và đồ uống, sản xuất may mặc, da và sản phẩm dệt may, dầu khí, xử lý và tái chế chất thải, khai khoáng và sản xuất các sản phẩm từ khoáng phi kim loại).
TS. Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước.
Song song với việc ban hành các chính sách liên quan đến tín dụng xanh, NHNN đã xây dựng và triển khai các chương trình tín dụng đặc thù góp phần sử dụng tài nguyên tiết kiệm, có hiệu quả, tăng trưởng xanh:
Một là, chính sách tín dụng khuyến khích phát triển việc sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao theo Nghị định số 55/2015/NÐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hai là, chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định 813/QÐ-NHNN ngày 24/4/2017.
Ba là, hướng dẫn thực hiện việc cho vay hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định số 68/2013/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm khuyến khích người dân đầu tư dự án, chế tạo máy, thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến, thu hoạch nâng cao giá trị, giảm tổn thất (nâng cao hiệu quả) trong sản xuất nông nghiệp (Thông tư 13/2014/TT-NHNN).
Bốn là, xây dựng và thực hiện chương trình cho vay tái canh cây cà phê tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020. Theo đó, NHNN dành khoảng 12.000-15.000 tỷ đồng tái cấp vốn cho Agribank để hỗ trợ nguồn vốn cho vay tái canh trên diện tích 12.000 ha tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên với các ưu đãi về mức vay, thời hạn vay, ân hạn và lãi suất vay.
Năm là, ban hành Thông tư hướng dẫn, triển khai chương trình cho vay trồng rừng theo Nghị quyết 30a, Nghị định 75/2015/NÐ-CP. Theo đó, các hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số khi vay vốn tại các ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng Chính sách xã hội để trồng rừng sản xuất sẽ được Nhà nước hỗ trợ lãi suất.
Những con số ấn tượng
Với nỗ lực của NHNN và các TCTD trong việc đưa chính sách tín dụng xanh vào thực tiễn, hoạt động tín dụng xanh đã có những chuyển biến tích cực.
Cụ thể, đến hết tháng 6/2019, dư nợ tín dụng đối với các dự án xanh đạt khoảng 317.600 tỷ đồng, tăng 32% so với năm 2018; trong đó, dư nợ trung dài hạn chiếm 76% dư nợ tín dụng xanh, lãi suất cho vay các lĩnh vực xanh ngắn hạn là 5-8%/năm, trung - dài hạn là 9-12%/năm.
Dư nợ tín dụng xanh chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp xanh, chiếm 45% tổng dư nợ tín dụng xanh; năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm 17%; quản lý nước bền vững tại khu vực đô thị và nông thôn chiếm 11% và lâm nghiệp bền vững chiếm 5%.
Ngoài ra, qua khảo sát của NHNN đối với các TCTD về lĩnh vực tăng trưởng xanh, tín dụng xanh, sự hiểu biết của các TCTD về tín dụng xanh đã được cải thiện đáng kể, cụ thể: 19 TCTD đã xây dựng chiến lược quản lý rủi ro môi trường và xã hội, 13 TCTD tích hợp nội dung quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong quy trình thẩm định tín dụng xanh;
10 TCTD đã xây dựng các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng cho các ngành/lĩnh vực xanh và đã quan tâm dành nguồn vốn huy động của ngân hàng để cấp tín dụng cho các lĩnh vực này với kỳ hạn chủ yếu là trung, dài hạn và có sự ưu đãi về lãi suất cho các dự án xanh; 17 TCTD sử dụng Sổ tay đánh giá rủi ro môi trường và xã hội cho 10 ngành kinh tế do NHNN và IFC phối hợp ban hành tháng 8/2018.
Khó khăn, thách thức trong hoạt động tín dụng xanh
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc triển khai các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tín dụng - ngân hàng xanh góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường hiện nay còn gặp một số khó khăn như:
Việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng tại Việt Nam hiện nay thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thị trường cao, nên rất cần các ưu đãi về thời hạn và chi phí vốn vay.
Trong khi đó, nguồn vốn huy động của các TCTD thường là ngắn hạn, huy động theo chi phí vốn thương mại trên thị trường nên có chi phí cao. Ðể có thể cung cấp các khoản tín dụng với thời hạn dài và lãi suất ưu đãi cho các ngành/lĩnh vực xanh, các TCTD cần được hỗ trợ tiếp cận các nguồn vốn dài hạn, ưu đãi, hoặc có cơ chế chia sẻ lãi suất cho vay giữa các TCTD.
Bên cạnh đó, phát triển các ngành kinh tế xanh đòi hỏi đồng bộ các giải pháp, cơ chế từ chính sách thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển của từng ngành, lĩnh vực, trên cơ sở đó mới thu hút và phát huy được tác dụng của nguồn vốn tín dụng xanh.
Ðồng thời, nhận thức và năng lực của các TCTD trong phát triển các sản phẩm tín dụng xanh mới ở bước đầu và còn hạn chế. Do đó, đòi hỏi có sự hỗ trợ nhằm tăng cường năng lực cho các TCTD trong việc lựa chọn, thẩm định, giám sát các khoản cấp tín dụng xanh.
Ðịnh hướng tăng trưởng tín dụng xanh
Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục thực thi đồng bộ các giải pháp thúc đẩy hoạt động của ngành ngân hàng trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường với những kế hoạch cụ thể:
Xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hướng dẫn thực hiện tín dụng xanh cho các TCTD, trong đó đưa ra các tiêu chuẩn về tín dụng xanh, danh mục các ngành/lĩnh vực xanh để áp dụng chung, thống nhất, từ đó làm cơ sở để các TCTD lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.
Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường - xã hội cho một số ngành chưa có hướng dẫn trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD.
Xây dựng các giải pháp tập trung nguồn lực để cấp tín dụng cho các dự án, phương án sản xuất - kinh doanh sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; sử dụng công nghệ, thiết bị thân thiện với môi trường, sản xuất những sản phẩm thân thiện với môi trường.
Tiếp tục huy động các nguồn lực để thực hiện chính sách tín dụng xanh tại Việt Nam, bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, nguồn vốn ưu đãi dài hạn từ các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IFC, ADB, JICA, KfW...), huy động vốn qua hình thức phát hành trái phiếu xanh để tài trợ các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn, tiết kiệm năng lượng.