Thúc đẩy bảo hiểm hưu trí tự nguyện

(ĐTCK)  Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới, thế nhưng việc triển khai bảo hiểm hưu trí tự nguyện (BHHTTN) còn rất hạn chế. Nỗ lực thúc đẩy dòng sản phẩm này của các công ty bảo hiểm cần gắn liền với chính sách phù hợp.
Việt Nam có nhiều cơ hội để thúc đẩy BHHTTN

Cơ hội thúc đẩy

Theo Dữ liệu dân cư quốc gia, cả nước hiện có 16,1 triệu người cao tuổi, chiếm hơn 16% dân số. Dự báo đến năm 2049, cứ 4 người có 1 người trên 60 tuổi.

Số liệu từ Liên hợp quốc cho thấy, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Trong vòng chưa đầy 20 năm tới, nhóm dân số trên 65 tuổi có thể chiếm trên 20% tổng dân số. Cụ thể, năm 2024, số lượng người già từ 60 tuổi trở lên là 14,2 triệu người (tăng 2,8 triệu người so với năm 2019). Dự báo đến năm 2029, số người từ 60 tuổi trở lên đạt khoảng 17,3 triệu người (chiếm 16,5% tổng số dân và tăng gần 4 triệu người so với năm 2024). Đến năm 2039, dân số từ 60 tuổi trở lên đạt khoảng 22,8 triệu người (chiếm 20,6% tổng số dân). Điều này làm giảm tính bền vững về mặt xã hội và tài chính trong trung - dài hạn cho hệ thống hưu trí của Việt Nam.

Bảo hiểm hưu trí đã và đang được triển khai tại Việt Nam như một giải pháp góp phần cải thiện lương hưu cho người lao động khi nghỉ hưu, giảm rủi ro phụ thuộc vào nguồn thu nhập từ hưu trí cơ bản, từ đó giảm gánh nặng cho hệ thống hưu trí.

Tại Việt Nam, dù có 20 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đang hoạt động, nhưng chỉ 6 doanh nghiệp đáp ứng điều kiện triển khai BHHTTN gồm Prudential, Bảo Việt Nhân thọ, Manulife, AIA, Dai-ichi Life và Sun Life.

Tỷ trọng doanh thu phí từ phân khúc này luôn duy trì dưới 1% tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ toàn thị trường, cho thấy kết quả khởi đầu khiêm tốn của các công ty bảo hiểm chưa tương xứng với tiềm năng của thị trường cũng như nhu cầu về tích lũy tài chính dài hạn trong bối cảnh dân số già hóa nhanh.

Sản phẩm BHHTTN lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào tháng 10/2013, do Dai-ichi Life Việt Nam tiên phong triển khai sản phẩm “An nhàn hưu trí”, sau đó là các sản phẩm của các công ty bảo hiểm còn lại.

Có thể nhận thấy sự khác biệt trong chiến lược phát triển sản phẩm của các công ty bảo hiểm đang triển khai phân khúc này. Dai-ichi Life Việt Nam và Bảo Việt Nhân thọ tiên phong và linh hoạt khi phát triển sản phẩm cho cả cá nhân và nhóm, qua đó mở rộng tệp khách hàng mục tiêu. Manulife, AIA và Sun Life Việt Nam thì tập trung chủ yếu vào dòng sản phẩm nhóm, hướng tới các doanh nghiệp muốn gia tăng phúc lợi cho người lao động. Prudential Việt Nam định vị sản phẩm ở khách hàng cá nhân, coi đây là kênh hoạch định tài chính cá nhân dài hạn.

Như vậy, mặc dù đã có những bước đi ban đầu, nhưng số lượng sản phẩm BHHTTN thương mại còn khá khiêm tốn so với toàn ngành. Điều này phản ánh cả những rào cản về pháp lý, động lực kinh doanh, cũng như hạn chế về nhận thức của khách hàng đối với loại hình bảo hiểm này. Trong khi đó, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, một thị trường hưu trí thương mại phát triển thường có hàng chục sản phẩm khác nhau, đa dạng về mức phí, quyền lợi và hình thức chi trả, phù hợp với nhiều phân khúc khách hàng.

Vì sao chưa trở thành kênh tích lũy hưu trí phổ biến?

Theo số liệu từ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (IAV), sau hơn 12 năm triển khai, quy mô khai thác hợp đồng và doanh thu phí từ phân khúc BHHTTN vẫn rất khiêm tốn. Số hợp đồng khai thác mới hàng năm dao động từ 900 - 1.700 hợp đồng, chiếm chưa đến 0,05% tổng số hợp đồng bảo hiểm nhân thọ toàn thị trường. Đây là tỷ lệ quá nhỏ nếu so sánh với hơn 52 triệu người đang trong độ tuổi lao động tại Việt Nam, nhóm đối tượng có tiềm năng lớn nhất của dòng sản phẩm này, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển trong bối cảnh dân số Việt Nam đang già hóa nhanh và nhu cầu tích lũy cho tuổi già ngày càng tăng.

Về số tiền bảo hiểm, năm 2024 đạt khoảng 357 tỷ đồng, cũng chỉ tương đương 0,025% tổng số tiền bảo hiểm toàn thị trường, phản ánh quy mô tích lũy từ sản phẩm BHHTTN còn rất thấp. Chưa có số liệu cập nhật của năm 2025, nhưng trong năm 2024, doanh thu phí tuy có dấu hiệu cải thiện (81.536 triệu đồng, gấp 2,6 lần so với năm 2023), nhưng tỷ trọng vẫn chỉ chiếm 0,35% tổng phí bảo hiểm toàn thị trường.

Các công ty bảo hiểm tham gia “sân chơi” này thừa nhận, dù nhận được nhiều kỳ vọng, nhưng thực tế BHHTTN chỉ tồn tại như một sản phẩm bổ sung trong danh mục kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, chưa thực sự trở thành một kênh tích lũy hưu trí phổ biến đối với người dân.

Nguyên nhân chính là do đa số doanh nghiệp bảo hiểm không ưu tiên phát triển vì kém hấp dẫn so với các dòng sản phẩm nhân thọ khác. Quy định pháp lý về vốn, quản trị rủi ro và hạch toán sản phẩm này còn chặt chẽ, dẫn đến chi phí quản lý cao, trong khi khả năng sinh lợi và doanh thu lại hạn chế. Chưa kể, chính sách hoa hồng cho đại lý tối đa chỉ ở mức 3%, thấp hơn nhiều so với các sản phẩm nhân thọ truyền thống (có thể lên tới 30 - 40%). Điều này khiến đội ngũ đại lý - vốn là kênh phân phối chủ lực, ít quan tâm bán sản phẩm BHHTTN.

Trong khi đó, nhận thức của người dân về nhu cầu tích lũy hưu trí còn chưa cao. Việc thu hẹp thu nhập càng làm giảm khả năng tham gia và duy trì hợp đồng này. Sản phẩm BHHTTN cũng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các kênh đầu tư khác như gửi tiết kiệm, bất động sản, chứng khoán hay sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư. Ngoài ra, tâm lý ngại cam kết dài hạn cho tuổi già và ưu tiên chi tiêu ngắn hạn của người dân Việt Nam cũng là rào cản lớn.

Cần ưu đãi thuế

Để thúc đẩy BHTNTN ở Việt Nam, giúp người dân có thêm “tấm đệm” tài chính khi về già, giảm gánh nặng cho an sinh xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế, cần kết hợp đồng bộ chính sách khuyến khích thuế, cơ chế thử nghiệm (sandbox) linh hoạt, truyền thông mạnh mẽ lợi ích tài chính dài hạn, đa dạng hóa sản phẩm và hoàn thiện khung pháp lý, tạo sự an toàn, minh bạch và tiện lợi.

Theo đó, về chính sách, cần hoàn thiện khung pháp lý cho BHHTTN theo hướng đồng bộ với Luật Bảo hiểm xã hội 2024 và Nghị định 158/2025/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, đồng thời nghiên cứu mở rộng các ưu đãi về thuế đối với khoản đóng góp của cá nhân và doanh nghiệp.

Theo quy định hiện hành, khoản tiền mua BHHTTN được giảm trừ khi tính thuế thu nhập cá nhân, nhưng tối đa không quá 1 triệu đồng/người/tháng. Do đó, cần tăng mức giảm trừ lên cao hơn, thậm chí có thể nghiên cứu cho phép người lao động được miễn thuế đối với quyền lợi được nhận từ hưu trí tự nguyện. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, ưu đãi thuế là một trong những công cụ hữu hiệu để khuyến khích người dân tham gia quỹ bảo hiểm hưu trí.

Tiếp đó, cần xem xét điều chỉnh chính sách hoa hồng ở mức hợp lý hoặc bổ sung cơ chế khuyến khích nhằm tạo động lực cho đại lý phân phối sản phẩm BHHTTN, tránh tình trạng sản phẩm này bị “lép vế” trước các dòng sản phẩm thương mại khác. Bởi thực tế, cơ chế ưu đãi thuế cho người tham gia BHHTTN hiện chưa rõ ràng, làm giảm sức hấp dẫn của sản phẩm. Tỷ lệ hoa hồng cho đại lý chỉ ở mức 3% là mức thấp hơn nhiều so với các sản phẩm nhân thọ khác, khiến lực lượng phân phối không mặn mà. Điều này làm sản phẩm BHHTTN dễ bị “bỏ rơi” trong danh mục kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm.

Đẩy mạnh công tác truyền thông và giáo dục tài chính để nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của tích lũy hưu trí. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia đóng góp vào quỹ hưu trí cho người lao động như một phần trong chiến lược phúc lợi bền vững.

Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý, IAV và các doanh nghiệp bảo hiểm trong việc nghiên cứu, dự báo nhu cầu, xây dựng bộ dữ liệu chuyên sâu và thiết kế sản phẩm phù hợp với từng nhóm đối tượng, đặc biệt chú trọng lao động khu vực phi chính thức và nhóm thu nhập trung bình - vốn là phân khúc có nhu cầu nhưng ít được tiếp cận.

Về phía doanh nghiệp bảo hiểm, cần đa dạng hóa sản phẩm, tăng tính linh hoạt trong thiết kế hợp đồng, cải thiện chính sách hoa hồng, đẩy mạnh truyền thông và giáo dục tài chính để gia tăng nhận diện xã hội. Người dân thì cần nâng cao nhận thức về vai trò của tích lũy hưu trí trong bảo đảm an sinh dài hạn.

TS. Đinh Thị Trâm
Khoa Quản lý nguồn nhân lực, Trường Đại học Lao động - Xã hội

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục