Thu hút nguồn vốn xanh và vai trò của ngân hàng

(ĐTCK) Các ngân hàng sẽ có vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi kinh tế xanh. Là người gác cổng vốn, họ có quyền chỉ đạo các quỹ hướng đến các dự án bền vững và tránh xa các ngành công nghiệp có hàm lượng carbon cao. 

Cần nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế xanh

Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Xanh 2024 chủ đề "Tăng tốc để tăng trưởng xanh" tổ chức bởi Tạp chí Kinh tế Sài Gòn ngày 19/9, ông Lim Dyi Chang, Giám đốc Khối Ngân hàng Doanh nghiệp, Ngân hàng UOB Việt Nam cho rằng: "Nỗ lực thúc đẩy nền kinh tế ít carbon đang ngày càng phát triển trên toàn cầu và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Khi chúng ta đối mặt với nhu cầu cấp thiết là giảm thiểu biến đổi khí hậu, vai trò của các khoản đầu tư xanh trong việc thúc đẩy các ngành ít carbon chưa bao giờ quan trọng hơn thế".

Các ngành ít carbon là các ngành công nghiệp giảm thiểu khí thải nhà kính và tập trung vào các hoạt động bền vững. Các ngành này bao gồm năng lượng tái tạo, các ngành công nghiệp tuần hoàn như tái chế nhựa và kim loại, nông nghiệp bền vững, giao thông xanh, tòa nhà xanh, quản lý chất thải. “Về bản chất, chúng là xương sống cho quá trình chuyển đổi của chúng ta sang nền kinh tế xanh hơn, cung cấp các giải pháp giúp giảm lượng khí thải carbon của chúng ta đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”, ông Lim nói.

Cũng theo nhận định của ông Lim, Việt Nam mong muốn tăng trưởng GDP 5-7% mỗi năm trong 3 thập kỷ tới. Nhu cầu năng lượng cơ bản để cung cấp năng lượng cho đất nước với tốc độ tăng trưởng này dự kiến ​​sẽ tăng theo cấp số nhân qua từng năm.

Mặt khác, Chính phủ kiên định trong việc cố gắng đưa đất nước hướng tới mục tiêu phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050. Khi 2 mục tiêu đối lập này kết hợp với nhau, điều đó chỉ có thể có nghĩa là các ngành carbon thấp của Việt Nam phải tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn đáng kể để đạt được cả hai mục tiêu cùng một lúc. Ước tính, riêng ngành năng lượng tái tạo đã tăng trưởng với tốc độ ấn tượng hơn 20% mỗi năm trong thập kỷ qua. Đầu tư vào các dự án năng lượng mặt trời và năng lượng gió đã tăng vọt, đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường năng lượng tái tạo hàng đầu ở Đông Nam Á.

Chuyên gia UOB cho rằng, quy mô đầu tư cần thiết để hiện thực hóa hoàn toàn quá trình chuyển đổi sang năng lượng ít carbon của Việt Nam là rất lớn. Theo Kế hoạch phát triển điện VIII, chỉ riêng quá trình chuyển đổi năng lượng sẽ cần khoảng 650 tỷ USD đầu tư từ năm 2021 đến năm 2050.

Ông Darryl J. Dong, Đại diện Cấp cao Phụ trách Văn phòng TP.HCM, Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), cho rằng, trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang là chủ đề được quan tâm, cũng có một phần dòng vốn chảy vào các lĩnh vực phát thải carbon thấp. Ước tính của IFC cho thấy, đầu tư cho các hoạt động liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam có thể lên tới 757 tỷ USD vào năm 2030, trong đó, nguồn vốn tín dụng xanh đóng vai trò tạo đà cho phát triển thị trường.

Theo ước tính của World Bank trước đó, Việt Nam sẽ cần 368 tỷ đô la vào năm 2040 để tài trợ cho cơ sở hạ tầng, công nghệ mới và các chương trình xã hội cho quá trình chuyển đổi của Việt Nam. Còn trong vòng 10 năm tới, theo IFC, Việt Nam sẽ cần huy động hàng trăm tỷ đô la, trong đó khu vực tư nhân sẽ đóng vai trò dẫn đầu. Nhu cầu vốn lớn, nhưng vấn đề là khả năng tiếp cận vốn trong lĩnh vực tài chính khí hậu còn hạn chế. Hiện nay, tín dụng xanh của các ngân hàng nội địa mới chỉ chiếm tỷ trọng 4,5%, trong khi lẽ ra ngân hàng phải là nơi cấp vốn chủ lực.

Vai trò then chốt của các ngân hàng

Nguồn tài trợ sẽ rất quan trọng để mở rộng công suất năng lượng tái tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng truyền tải năng lượng, hỗ trợ đầu tư R&D vào các công nghệ xanh mới như hydro, thu giữ carbon và pin hiệu quả hơn, cũng như chuyển đổi bản chất của giao thông vận tải và xây dựng, trong số những thứ khác. Số tiền đầu tư này không thể chỉ được tài trợ bởi Chính phủ, mức độ tham gia đáng kể của khu vực tư nhân là rất quan trọng.

Do đó, các ngân hàng sẽ có vai trò then chốt trong quá trình chuyển đổi này. Là người gác cổng vốn, họ có quyền chỉ đạo các quỹ hướng đến các dự án bền vững và tránh xa các ngành công nghiệp có hàm lượng carbon cao. Các sáng kiến ​​tài chính xanh, chẳng hạn như trái phiếu xanh và các khoản vay bền vững, có thể huy động sự tham gia rộng rãi hơn của khu vực tư nhân vào các dự án carbon thấp.

Nhu cầu vốn lớn, nhưng chuyên gia IFC cho rằng, vấn đề là khả năng tiếp cận vốn trong lĩnh vực tài chính khí hậu còn hạn chế. Hiện nay, tín dụng xanh của các ngân hàng nội địa mới chỉ chiếm tỷ trọng 4,5%, trong khi lẽ ra ngân hàng phải là nơi cấp vốn chủ lực. Tuy nhiên, hiện còn rào cản trong tài chính khí hậu, từ góc độ ngân hàng tài trợ vốn hay nhà đầu tư gồm: chi phí đầu tư phải trả trước rất lớn, tín dụng xanh ở mức thấp, năng lực thị trường vốn hạn chế. Tiếp nữa là tâm lý nghi ngờ và do dự trước các dự án khí hậu được coi là tiềm ẩn rủi ro.

Để có thể huy động được nguồn lực tài chính cho phát triển xanh, IFC đưa ra là bốn sự điều chỉnh ở trên các khía cạnh bao gồm: quy định, dự án khả thi có thể nhận tài trợ từ ngân hàng, tăng cường tài chính hỗn hợp, gia tăng “năng lực khí hậu”, trong đó quy định pháp lý đóng vai trò quan trọng nhất. IFC cho rằng, trong việc xây dựng khung pháp lý, không nên quá cầu toàn mà trước mắt phải có sự tham khảo, học hỏi để có thể đạt kết quả cuối cùng tốt nhất.

IFC cũng vừa công bố gói tài chính 150 triệu USD cho SeABank. Gói tài trợ bao gồm khoản đầu tư vào trái phiếu xanh lam đầu tiên ở Việt Nam và trái phiếu xanh lá đầu tiên do một ngân hàng thương mại tư nhân trong nước phát hành. Trong đó, IFC đăng ký mua 25 triệu USD trái phiếu xanh lam để giúp SeABank huy động thêm vốn cho các hoạt động kinh tế bền vững gắn với đại dương và nước. Đồng thời, IFC cũng đăng ký mua trái phiếu xanh lá trị giá 50 triệu USD nhằm giúp SeABank mở rộng cho vay trong các lĩnh vực như tòa nhà xanh, năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng.

Theo các chuyên gia tài chính, việc chuyển dòng vốn tài trợ vào các ngành ít carbon không phải là không có thách thức. Từ phía các nhà đầu tư, các rào cản đáng kể nhất bao gồm việc thiếu một khuôn khổ phân loại xanh rõ ràng, không đủ động lực cho các khoản đầu tư xanh và các rủi ro tài chính được cho là có mối liên hệ đến các công nghệ mới.

Ngoài ra, thường có sự không phù hợp giữa bản chất dài hạn của các khoản đầu tư xanh và kỳ vọng tài chính ngắn hạn của các nhà đầu tư. Để vượt qua những thách thức này, cần có những nỗ lực phối hợp từ các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức tài chính và khu vực tư nhân.

Theo Nghiên cứu Triển vọng Doanh nghiệp năm 2024 của UOB, 50% các công ty Việt Nam cho biết, việc thiếu các giải pháp tài chính bền vững là rào cản lớn trong hành trình chuyển đổi xanh của họ. Về giải pháp tài chính bền vững, các chuyên gia cũng cho rằng, trước hết các ngân hàng phải tuân theo các cơ quan quản lý để đảm bảo rằng tất cả các quyết định cho vay đều phải tuân theo các đánh giá tín dụng chặt chẽ, bất kể mục đích của khoản vay có phải là xanh hay không.

Khách hàng phải có uy tín tín dụng tốt và dự án phải được coi là khả thi về mặt tài chính. Sau khi đáp ứng được 2 tiêu chí trên, các ngân hàng sẽ áp dụng các điều khoản tài trợ xanh thường ưu đãi hơn so với các khoản vay thông thường. Lấy ví dụ cụ thể tại UOB, sau quá trình đánh giá tín dụng, UOB có thể tìm thấy một dự án xứng đáng được tài trợ khoảng 60%. Đối với các dự án xanh có mục tiêu bền vững phù hợp với định hướng của UOB, UOB có thể cân nhắc tài trợ lên đến 70 - 75%, thậm chí nhiều hơn. Chi phí tài trợ cũng có thể được giảm một tỷ lệ phần trăm nhỏ, tùy thuộc vào việc dự án có thực hiện đúng các mục tiêu xanh ban đầu hay không.

Thùy Vinh

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục