Thu hẹp khoảng cách số của châu Á

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Mặc dù kết nối số trên các khu vực của châu Á vẫn còn khoảng cách, nhưng các chính sách sáng suốt đang thu hẹp khoảng cách về khả năng tiếp cận và kỹ năng trong khi thúc đẩy các công nghệ xanh để hỗ trợ sự bền vững của môi trường.
Kết nối số là nền tảng phổ cập tri thức và xóa đói giảm nghèo. Kết nối số là nền tảng phổ cập tri thức và xóa đói giảm nghèo.

Băng thông rộng cố định và di động hiện đã tiếp cận được hơn hai tỷ người ở các nước đang phát triển của châu Á, nhưng khoảng cách số dai dẳng khiến hàng triệu người không thể kết nối hoặc phải vật lộn với các kết nối chậm và tốn kém.

Tốc độ tải xuống ở các vùng nông thôn chậm hơn tốc độ ở thành thị gần 40%; phụ nữ sử dụng internet ít hơn nam giới ở 19 trong số 22 nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương; và tại Cộng hòa Kyrgyzstan, Mông Cổ, Philippines và Sri Lanka, các gói dữ liệu di động cho phép kết nối có ý nghĩa vẫn nằm ngoài khả năng chi trả của nhiều hộ gia đình thu nhập thấp.

Theo báo cáo mới công bố Chính sách Phát triển châu Á mới nhất: Khai thác chuyển đổi số vì mục đích tốt đẹp, khoảng cách này hạn chế các cơ hội kinh tế, cản trở việc học và khiến các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương hơn trước bão lũ càn quét khu vực này mỗi năm.

Tuy nhiên, công nghệ số có thể thu hẹp bất bình đẳng khi được dẫn dắt bởi các chính sách sáng suốt. Quỹ dịch vụ toàn dân, nghĩa vụ bảo hiểm và trợ cấp có mục tiêu đang mang lại kết nối chất lượng cho các nhóm chưa được phục vụ đầy đủ và cải thiện khả năng chi trả của họ.

Hợp tác giữa các cơ quan cho phép hướng tới mục tiêu tốt hơn. Tại Thái Lan, cơ quan quản lý viễn thông, nơi điều hành các chương trình dịch vụ toàn dân, hợp tác với các cơ quan phúc lợi xã hội để mang lại kết nối đến nơi quan trọng nhất. Fiji và Pakistan sử dụng các ưu đãi để đưa các tháp di động và cáp quang vào các thung lũng và đảo xa xôi.

Các cuộc đấu giá cạnh tranh ở Ấn Độ nhằm mục đích đẩy nhanh việc triển khai kết nối 5G, trong khi luật cạnh tranh kỹ thuật số của nước này hạn chế các hoạt động chống cạnh tranh của các nền tảng thống trị để các doanh nghiệp nhỏ có thể phát triển trực tuyến.

Các chính phủ đang kết hợp các động lực cơ sở hạ tầng với các chiến dịch về nguồn nhân lực. Khoảng 40% người dân ngay cả ở một số nền kinh tế có thu nhập trung bình khá vẫn thiếu các kỹ năng số cơ bản. Các nền kinh tế như Malaysia thưởng cho các công ty tuyển dụng và đào tạo nhân viên cho các vị trí về dữ liệu, mã hóa và thương mại điện tử. Việt Nam đặt mục tiêu trang bị cho một triệu công dân những kỹ năng đó trong năm 2025.

Kết quả ban đầu cho thấy lý do tại sao việc thu hẹp khoảng cách số lại quan trọng. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, một bước tiến lên nấc thang số có thể cắt giảm bất bình đẳng thu nhập hộ gia đình tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình do phụ nữ làm chủ ở Việt Nam nhanh hơn so với nam giới.

Đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ, khả năng kết nối tốt hơn có nghĩa là các khoản vay dễ dàng hơn, chi phí giao dịch thấp hơn và - trong những tháng đầu tiên của đại dịch ở Indonesia - tổn thất doanh thu ít hơn so với các đối thủ ngoại tuyến của họ.

Thu hẹp khoảng cách cũng có nghĩa là giữ cho đèn sáng mà không làm nóng hành tinh. Các trung tâm dữ liệu, thiết bị và mạng đã tiêu thụ hơn 800 terawatt giờ mỗi năm trên toàn thế giới và nhu cầu về điện của chúng đang tăng nhanh.

Malaysia, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hàn Quốc và Singapore hiện yêu cầu các trung tâm dữ liệu xanh hơn để thúc đẩy hiệu quả năng lượng, hỗ trợ nghiên cứu về làm mát bằng chất lỏng, lưới điện thông minh và các công cụ tiết kiệm năng lượng khác và đẩy nhanh đầu tư vào năng lượng tái tạo.

Chia sẻ tháp di động và phổ tần cắt giảm sự trùng lặp. Ở những vùng khó tiếp cận của Nam Á, việc chia sẻ cơ sở hạ tầng có khả năng cắt giảm mức sử dụng điện hàng năm khoảng một phần sáu. Hệ thống giao thông thí điểm được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo tại TP. Bengaluru của Ấn Độ đã cho thấy hiệu quả: chuyến đi ngắn hơn, ít nhiên liệu hơn và không khí trong lành hơn.

Không có công thức duy nhất nào phù hợp với mọi nền kinh tế, vì vậy các quan chức tự cân nhắc điểm khởi đầu của mình. Các nền kinh tế như Campuchia, Bangladesh và Pakistan - vẫn còn thấp trên thang đo số hóa - ưu tiên các mạng lưới giá cả phải chăng, áp dụng dịch vụ đám mây và kết nối chặng cuối.

Các quốc gia lớn hơn như Ấn Độ, Indonesia và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tận dụng cơ sở hạ tầng hiện có để phổ biến thanh toán điện tử, nông nghiệp thông minh và cơ sở hạ tầng kỹ thuật số xanh như trung tâm dữ liệu tiết kiệm năng lượng.

Các nền kinh tế này, cũng như các nước đi đầu về kỹ thuật số như Hàn Quốc và Singapore, đổi mới các công nghệ kỹ thuật số xanh và toàn diện mới. Các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á cũng có thể hợp tác về các tiêu chuẩn dữ liệu xuyên biên giới mà nhiều nước có thể áp dụng để khuyến khích luồng dữ liệu và thúc đẩy thương mại.

Đằng sau mỗi chương trình là một ý tưởng đơn giản: chuyển đổi số hoạt động tốt nhất khi tính đồng đều và tính bền vững cùng song hành. Các chiến lược cấp cao như Thỏa thuận mới của Hàn Quốc và Hội đồng kinh tế số quốc gia và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư của Malaysia phá vỡ các rào cản quan liêu để các cơ quan kỹ thuật số, tài chính, môi trường và giáo dục đều cùng chung một hướng.

Ngành ngân hàng Việt Nam không chỉ đi đầu trong chuyển đổi số mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc lan tỏa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của kinh tế số.

Đến nay, có hơn 87% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản ngân hàng. Trong năm 2024 so với cùng kỳ năm 2023, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 56,68% về số lượng và 32,79% về giá trị; qua kênh Internet tăng 49,73% về số lượng và 33,12% về giá trị; qua kênh điện thoại di động tăng 54,08% về số lượng và 34,03% về giá trị, giao dịch qua QR Code tăng 104,65% về số lượng và 97,14% về giá trị.

Toàn ngành ngân hàng đã có hơn 113 triệu hồ sơ khách hàng cá nhân và 711.000 hồ sơ khách hàng tổ chức được đối chiếu sinh trắc học qua CCCD gắn chip hoặc VNeID.

Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia (CIC) đã hoàn thành 6 đợt đối chiếu với khoảng 57 triệu lượt hồ sơ khách hàng theo phương thức offline. 60 tổ chức tín dụng đã triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắn chip qua thiết bị tại quầy; 56 tổ chức tín dụng và 37 tổ chức trung gian thanh toán đã triển khai ứng dụng thẻ CCCD gắn chip qua ứng dụng Mobile App; 32 tổ chức tín dụng và 15 tổ chức trung gian thanh toán đang triển khai ứng dụng VNeID (trong đó có 14 tổ chức tín dụng và 4 trung gian thanh toán đã triển khai chính thức)

(*) Ông Donghyun Park Cố vấn kinh tế (Các sáng kiến tri thức chiến lược), Văn phòng Kinh tế trưởng của ADB và Vụ trưởng, Vụ nghiên cứu kinh tế và tác động phát triển

Sanchita Basu-Das Chuyên gia kinh tế, Ban Hợp tác và Hội nhập khu vực của ADB, Vụ nghiên cứu kinh tế và tác động phát triển

Yoonee Jeong Chuyên gia cấp cao công nghệ số (Cơ sở hạ tầng và kinh tế số), Vụ Biến đổi khí hậu và Phát triển bền vững của ADB (CCSD).

Donghyun Park - Sanchita Basu Das - Yoonee Jeong (*)

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục