Thị trường hàng hóa tuần từ 3-10/12: Dầu, vàng bật tăng

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Kết thúc tuần giao dịch từ 3-10/12, thị trường hàng hóa thế giới chứng khoán sự bật tăng mạnh sau nhiều tháng của dầu hay vàng khi tâm lý lo ngại về biến thể mới Omicron giảm bớt, trong khi nhiều mặt hàng khác giảm giá như đồng, sắt thép, ngô, lúa mì, cà phê…
Ảnh Internet Ảnh Internet

Năng lượng: Giá dầu tăng mạnh nhất 4 tháng, khí LNG cũng tăng

Kết thúc phiên cuối tuần qua 10/12, giá dầu Brent tăng 73 US cent (+1%) lên 75,15 USD/thùng, sau khi giảm 1,9% ở phiên liền trước; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) cũng tăng 73 US cent (+1%) lên 71,67 USD/thùng, sau khi giảm 2% ở phiên liền trước.

Tính cả tuần, cả 2 loại dầu đều tăng khoảng 8% - tuần tăng đầu tiên trong vòng 7 tuần qua, cũng là tuần tăng mạnh nhất kể từ cuối tháng 8/2021.

Giá khí tự nhiên (LNG) tại Mỹ cũng tăng gần 3% do dự báo nhu cầu sưởi ấm tăng và thời tiết lạnh hơn theo mùa. Cụ thể, giá LNG kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn New York tăng 11,1 US cent (+2,9%) lên 3,925 USD/mmBtu - cao nhất kể từ ngày 3/12/2021.

Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá LNG tại Mỹ vẫn giảm 5% sau khi giảm 11% trong ngày 6/12/2021 - phiên giảm mạnh nhất kể từ tháng 1/2019. Tuần trước nữa, giá LNG giảm hơn 24% - tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 2/2014.

Tuần qua, các chỉ số giá than tại Nam Phi giảm xuống dưới 135 USD/tấn do tác động giá than tại Trung Quốc giảm. Nhu cầu ngày càng tăng từ Ấn Độ và tồn kho cực thấp tại kho than Richards Bay có thể tác động tích cực đến báo giá than Nam Phi trong ngắn hạn.

Tại châu Âu, báo giá than nhiệt giảm xuống dưới 130 USD/tấn trước thông tin về khả năng tiếp tục giảm giá tại thị trường Trung Quốc, trong khi giá than 6.000 kcal/kg FOB của Nga được giữ ở mức 165 USD/tấn.

Tại Trung Quốc, giá giao ngay đối với than 5.500 kcal/kg FOB Qinhuangdao nằm trong khoảng 180-185 USD/tấn.

Do lũ lụt và thời tiết không thuận lợi ở một số vùng khai thác than của Úc, một số nhà sản xuất đã thông báo bất khả kháng trong thời gian ngắn có thể ảnh hưởng tích cực đến báo giá nguyên liệu của Úc, hiện ở mức dưới 165 USD/tấn.

Báo giá than GAR 5.900 kcal/kg của Indonesia đang xu hướng đi ngang ở mức 140 USD/tấn, trong bối cảnh các thương nhân châu Á chờ đợi giá sẽ giảm tiếp.

Nhu cầu thấp đối với than luyện kim trên thị trường châu Á - Thái Bình Dương đã tác động lên chỉ số than luyện cốc của Úc, giảm xuống dưới 315 USD/tấn.

Kim loại: Vàng tăng giá, đồng và quặng sắt tiếp tục giảm

Ở nhóm kim loại quý, kết thúc phiên cuối tuần qua 10/12, giá vàng tăng do lạm phát giá tiêu dùng của Mỹ tăng thấp hơn dự kiến và nhà đầu tư giảm đặt cược vào việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ sớm nâng lãi suất.

Theo đó, giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.782,44 USD/ounce, đảo chiều sau 2 phiên giảm trước đó; vàng kỳ hạn tháng 2/2022 tăng 0,5% lên 1.784,8 USD/ounce.

Các chuyên gia nhận định, giá vàng sẽ dao động trong phạm vi 1.770-1.810 USD/ounce do các nhà đầu tư lo lắng về chính sách của Fed, những bất ổn xung quanh sự xuất hiện của biến thể Omicron có thể làm hoãn chu kỳ tăng lãi suất.

Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay phiên này tăng 1% lên 22,15 USD/ounce; bạch kim tăng 0,3% lên 937,68 USD/ounce và là tuần tăng đầu tiên trong vòng 4 tuần qua; palladium giảm 3,2% xuống 1.754,57 USD/ounce.

Ở nhóm kim loại công nghiệp, chốt phiên 10/12, giá đồng trên sàn London giảm 0,3% xuống 9.504 USD/tấn, sau thông tin giá tiêu dùng của Mỹ tăng phù hợp với kỳ vọng, làm cản trở hoạt động mua hàng của các nhà đầu tư, phiên liền trước đã giảm 1,2%.

Nước tiêu thụ kim loại hàng đầu Trung Quốc - là động lực chính thúc đẩy giá kim loại và 2 trong 3 trụ cột của nhu cầu đồng Trung Quốc là bất động sản và cơ sở hạ tầng đã suy yếu.

Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 0,6% xuống 2.612 USD/tấn; thiếc giảm 0,3% xuống 39.375 tấn; ngược lại giá kẽm tăng 0,2% lên 3.317,50 USD/tấn, cho dù lượng thép lưu kho trên sàn London tăng 14.025 tấn lên 164.425 tấn; nickel tăng 0,3% lên 19.820 USD/tấn; chì tăng 0,3% lên 2.290,50 USD/tấn.

Tính chung cả tuần, giá đồng giảm, trong khi giá nhôm, thiếc và kẽm tăng.

Trong nhóm sắt thép, tại sàn Đại Liên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2022 giảm 0,7% xuống 639,5 CNY (100,46 USD)/tấn trong phiên 10/12 do tồn trữ nguyên liệu này tăng tại nước sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc, cùng với đó là nhu cầu suy yếu.

Tuy nhiên, giá quặng sắt có tuần tăng thứ 3 liên tiếp, do lạc quan về các biện pháp kích thích của Trung Quốc đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2022 trên sàn Singapore giảm 0,5% xuống 108,55 USD/tấn.

Dự báo giá quặng sắt có thể đạt 75 USD/tấn vào cuối năm 2022, do các biện pháp kiểm soát sản xuất thép thắt chặt để hạn chế lượng khí thải tại Trung Quốc tiếp tục được duy trì.

Quặng sắt nhập khẩu tồn trữ tại các cảng của Trung Quốc trong tuần trước đạt 155,4 triệu tấn - cao nhất kể từ tháng 7/2018, Công ty Tư vấn SteelHome cho biết.

Nông sản: Giá ngô và lúa mì giảm, đậu tương đi lên

Chốt phiên 10/12, giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 3/2022 tăng 8-1/2 US cent lên 7,85-1/4 USD/bushel; ngô giao cùng kỳ hạn giảm 1-3/4 US cent xuống 5,9 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 1/2022 tăng 3-1/4 US cent lên 12,67-3/4 USD/bushel.

Bất chấp việc giá dầu WTI tăng mạnh hơn và dầu cọ cũng tăng hơn 3%, giá dầu đậu tương tiếp tục giảm hơn 6% về mức 53,69 cents/pound. Trong bối cảnh giá đậu tương đi ngang, việc giá dầu đậu tương giảm mạnh cùng lực mua kỹ thuật ở vùng hỗ trợ 350 USD/tấn Mỹ đã giúp khô đậu tương tăng khá mạnh 2.3% lên mức 366,8 USD/tấn Mỹ.

Theo Công ty nghiên cứu AgResource, khối lượng giao dịch thấp hơn nhiều so với những ngày trước đó do các nhà giao dịch bắt đầu chốt sổ năm 2021 khi kỳ nghỉ lễ tới gần. Thị trường dự kiến sẽ sôi nổi trở lại khi bước sang năm mới.

Các công ty tư nhân Trung Quốc cho biết đã mua 200.000-400.000 tấn ngô Mỹ và lượng ngũ cốc chưng cất khô (DDG) chưa rõ khối lượng. Trung Quốc cũng đã đặt mua khoảng 1,25-1,75 triệu tấn lúa mỳ làm thức ăn chăn nuôi từ Úc.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường và cao su nhích tăng, cà phê đi xuống

Đóng cửa phiên 10/12, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn ICE tăng nhẹ lên mức 19,71 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn London tăng 0,13% lên 511,4 USD/tấn.

Với mặt hàng cà phê, giá arabica kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn ICE giảm 3,1% xuống 2,326 USD/lb, sau khi đạt mức cao nhất 10 năm (2,5235 USD/lb) trong ngày 7/12/2021; robusta kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn London giảm 0,6% xuống 2.291 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 10 năm (2.334 USD/tấn) trong ngày 7/12/2021.

Giá cà phê 2 sàn sụt giảm do lo ngại nhu cầu tiêu thụ suy yếu vì dịch bệnh bùng phát trở lại đã dẫn tới hoạt động thanh lý kéo dài.

Trong khi đó, giá cao su tại Nhật Bản tăng trong phiên cuối tuần do các nhà đầu tư đẩy mạnh mua vào sau khi giá chạm mức thấp nhất 3 tuần, bởi các dấu hiệu về sự gián đoạn sản xuất ô tô do thiếu chip và linh kiện suy giảm.

Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2022 trên sàn Osaka tăng 0,4 JPY (+0,2%) lên 229,1 JPY (2,02 USD)/kg, trong phiên trước đó chạm mức thấp nhất kể từ ngày 19/11/2021 (225,4 JPY/kg). Tính chung cả tuần, giá cao su giảm 4,8% - tuần giảm thứ 2 liên tiếp.

Giá cao su kỳ hạn tháng 5/2022 trên sàn Thượng Hải tăng 105 CNY lên 14.490 CNY (2.276 USD)/tấn.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục