
Năng lượng: Dầu giữ giá, khí LNG tiếp tục giảm gần 7%
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu phục hồi vào phiên 14/3 để kết thúc tuần gần như không đổi, trong bối cảnh giới đầu tư cân nhắc trước triển vọng suy yếu.
Cụ thể, giá dầu thô Brent tăng 70 Uscent (+1%) lên 70,58 USD/thùng, sau khi giảm 1,5% trong phiên trước đó; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 63 Uscent (+1%) lên 67,18 USD/thùng sau khi giảm 1,7% vào thứ Năm (13/3). Cả 2 chuẩn mực đều kết thúc tuần với ít thay đổi so với thứ Sáu tuần trước nữa.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đưa ra cảnh báo, nguồn cung dầu toàn cầu có thể vượt quá nhu cầu khoảng 600.000 thùng mỗi ngày trong năm nay, vì sự tăng trưởng do Mỹ dẫn đầu và nhu cầu toàn cầu yếu hơn dự kiến. IEA cắt giảm ước tính tăng trưởng nhu cầu trong quý IV/2024 và quý I/2025.
Theo Commerzbank, rủi ro cao về phía cầu và nguồn cung tăng từ OPEC+ là rào cản cho sự phục hồi bền vững của giá dầu.
Tại Mỹ, số lượng giàn khoan dầu đã tăng thêm 1 giàn trong tuần qua, Công ty Dịch vụ Baker Hughes (BKR.O) cho hay.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm vào thứ Sáu (14/3) và ghi nhận mức giảm mạnh hàng tuần do chịu áp lực trước dự báo thời tiết ấm hơn bình thường và nhu cầu sưởi ấm thấp hơn trong 2 tuần tới so với dự kiến trước đó.
Cụ thể, giá LNG giao tháng 4/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 0,7 cent (-0,2%) xuống 4,1 USD/(mmBtu) trong phiên 14/3 và giảm 6,6% trong tuần.
LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng nhẹ từ 106,3 tỷ feet khối mỗi ngày trong tuần qua lên 107,8 bcfd vào tuần này. Đồng thời cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã tăng lên 105,7 bcfd cho đến nay trong tháng 3, tăng so với mức kỷ lục 105,1 bcfd vào tháng 2.
Lượng khí đốt vào 8 nhà máy xuất khẩu LNG của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 15,6 bcfd cho đến nay trong tháng 3, bằng với mức cao kỷ lục đạt được vào tháng 2.
Trong năm 2024, Canada cung cấp khoảng 8% tổng nhu cầu khí đốt của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu và khoảng 1% tổng nhu cầu điện của Mỹ, một lần nữa bao gồm cả xuất khẩu. Một số lượng điện và khí đốt xuất khẩu đó đã quay trở lại Canada.
Kim loại: Giá vàng lần đầu vượt ngưỡng 3.000 USD/ounce, thiếc lên cao nhất 32 tháng, quặng sắt và thép cũng tăng, đồng giảm
Tuần qua, thị trường kim loại chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng, được thúc đẩy bởi lo ngại suy thoái kinh tế Mỹ và tín hiệu tích cực từ Trung Quốc.
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng đã vượt qua ngưỡng 3.000 USD/ounce lần đầu tiên trong lịch sử trong bối cảnh các nhà đầu tư đổ xô mua tài sản an toàn này để tránh khỏi tình trạng bất ổn kinh tế do cuộc chiến thuế quan.
Cụ thể, giá vàng giao ngay đạt mức cao nhất mọi thời đại 3.004,86 USD/ounce vào đầu phiên giao dịch, trước khi giảm 0,1% xuống 2.986,26 USD/ounce vào cuối phiên do hoạt động chốt lời. Vàng kỳ hạn tháng 4/2025 tăng 0,3% lên 3.001,10 USD/ounce.
Giá vàng cũng được hỗ trợ bởi nhu cầu của ngân hàng trung ương, với khách hàng chính là Trung Quốc đã mua ròng 4 tháng liên tiếp tính tới tháng 2/2025.
Kỳ vọng về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ cũng đã hỗ trợ thị trường vàng. Các nhà giao dịch đặt cược rằng, việc cắt giảm sẽ diễn ra vào tháng 6/2025.
Tương tự, giá bạc cũng tăng mạnh 5,04% lên 34,19 USD/ounce - mức cao nhất trong hơn 4 tháng qua, trong khi bạch kim tăng 4,83% lên 1.013 USD/ounce - cao hơn 11% so với đầu năm 2025.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm từ mức cao nhất 5 tháng do lo ngại về tăng trưởng toàn cầu làm giảm tác động từ thuế quan của Mỹ, trong khi giá thiếc tăng mạnh lên mức cao nhất 32 tháng sau khi một mỏ ở Congo đóng cửa.
Cụ thể, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,1% xuống 9.759,50 USD/tấn, trong phiên có thời điểm tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 11/10/2024 là 9.811 USD/tấn.
Ngược lại, giá thiếc trên sàn LME tăng mạnh 8,9% lên 36.400 USD/tấn sau khi chạm mức cao nhất kể từ tháng 7/2022, khi Alphamin Resources cho biết, họ sẽ tạm thời ngừng hoạt động tại mỏ thiếc Bisie của mình tại Cộng hòa Dân chủ Congo do tình hình bất ổn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tăng lên mức cao nhất gần 2 tuần vào thứ Sáu (14/3) do nhu cầu phục hồi và kỳ vọng ngày càng tăng về các biện pháp kích thích bổ sung tại quốc gia tiêu thụ hàng đầu thế giới - Trung Quốc.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc tăng 2,32% lên 794 CNY (109,79 USD)/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 3/3 và tăng 2,5% cả tuần.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 4/2024 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 1,55% lên 103,8 USD/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 28/2 và cả tuần tăng 3,3%.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc hôm thứ Năm cho biết, sẽ cắt giảm lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng vào thời điểm thích hợp và duy trì thanh khoản dồi dào. Giá cũng được hỗ trợ bởi nhu cầu liên tục tăng đối với thành phần sản xuất thép chính, vì các nhà sản xuất thép đã tăng sản lượng trong mùa xây dựng cao điểm vào tháng 3.
Giá quặng tăng khi các nhà đầu tư đặt cược vào nhu cầu tăng trong ngắn hạn đối với thành phần sản xuất thép chính sau khi kết thúc cuộc họp thường niên của Quốc hội Trung Quốc.
Một số nhà máy thép đã bắt đầu bảo dưỡng lò cao, dần dần hoạt động trở lại nhờ biên lợi nhuận khá và dấu hiệu nhu cầu cải thiện, các nhà phân tích tại Công ty Tư vấn Mysteel cho biết trong một lưu ý.
Giá chuẩn thép trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng: Thép cây tăng 0,59%; thép cuộn cán nóng tăng 0,63%; thép dây tăng 0,29% và thép không gỉ tăng 0,71%.
Các thành phần sản xuất thép khác trên sàn DCE tăng, với than cốc và than cốc tăng lần lượt 0,8% và 0,06%.
Nông sản: Đậu tương tăng giá, đi ngược lúa mì và ngô
Thị trường nông sản trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) ghi nhận giá lúa mì và ngô giảm do lo ngại về xung đột thương mại, trong khi đậu tương phục hồi nhẹ sau phiên giao dịch biến động.
Cụ thể, lúa mì đỏ mềm mùa Đông kỳ hạn tháng 5 (WK25) giảm 5,05 cent xuống 5,57 USD/giạ; lúa mì đỏ cứng mùa Đông KC (KWK25) giảm 1,05 cent xuống 5,86 USD/giạ; lúa mì Xuân Minneapolis (MWEK25) giảm 2 cent xuống 6,0175 USD/giạ.
Thị trường lúa mì chịu áp lực từ căng thẳng thương mại sau khi Mỹ áp thuế đối với thép và nhôm nhập khẩu, dẫn đến động thái trả đũa từ Liên minh Châu Âu (EU) và Canada đối với một số hàng hóa Mỹ. Dù vậy, dự báo sản lượng xuất khẩu lúa mì của Nga giảm xuống còn 41 triệu tấn trong niên vụ 2024-2025, từ mức 42,5 triệu tấn trước đó, đã phần nào giúp giá lúa mì CBOT không giảm sâu hơn.
Ngoài ra, giá lúa mì Mỹ cũng được hỗ trợ bởi việc Nga duy trì hạn ngạch xuất khẩu, cùng với lo ngại về tình trạng khô hạn nghiêm trọng tại khu vực Đồng bằng Mỹ, nơi gần một nửa diện tích trồng lúa mì Đông bị ảnh hưởng.
Tương tự, giá ngô kỳ hạn tháng 5 (CK25) giảm 6,75 cent về 4,5805 USD/giạ. Thị trường ngô cũng chịu tác động từ căng thẳng thương mại, đặc biệt khi EU cân nhắc áp lại thuế 25% đối với ngô Mỹ, cùng khả năng tăng thuế đối với đậu tương, làm dấy lên lo ngại về gián đoạn xuất khẩu từ Mỹ.
Nguồn cung dồi dào từ Nam Mỹ tiếp tục tạo áp lực lên giá ngô, mặc dù dự báo sản lượng ngô tại Argentina suy giảm có thể hạn chế đà giảm giá. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), các nhà xuất khẩu đã bán 218.604 tấn ngô Mỹ cho các địa điểm không xác định để giao hàng trong niên vụ 2024-2025.
Ngược lại, giá đậu tương giao tháng 5 (SK25) tăng 5,25 cent lên 10,16 USD/giạ, sau một ngày giao dịch nhiều biến động khi giới đầu tư đánh giá tác động của cuộc chiến thuế quan do chính quyền Mỹ khơi mào. Tuy nhiên, giá bột đậu tương (SMK25) lại giảm 1,2 USD xuống 305,9 USD/tấn ngắn, trong khi giá dầu đậu tương (BOK25) tăng 0,31 cent lên 41,59 cent/pound.
Áp lực giảm giá đậu tương đến từ kỳ vọng về một vụ thu hoạch lớn tại Brazil, quốc gia xuất khẩu đậu tương hàng đầu thế giới. Ở Argentina, mặc dù mưa có lợi cho mùa vụ, nhưng Sàn giao dịch ngũ cốc Rosario đã hạ dự báo sản lượng đậu tương và ngô của nước này trong tuần qua.
USDA cũng báo cáo, các nhà xuất khẩu Mỹ đã bán 20.000 tấn dầu đậu tương cho các khách hàng không xác định, dự kiến giao hàng trong niên vụ 2024-2025. Công ty Tư vấn Safras & Mercado hạ dự báo sản lượng đậu tương Brazil xuống còn 172,45 triệu tấn, giảm so với mức 174,88 triệu tấn dự báo trước đó.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường và cao su tăng, ca cao chạm mức thấp nhất 4 tháng, cà phê diễn biến trái chiều
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô (SB1!) giảm nhẹ 0,06 cent (-0,3%) về 19,19 cent/pound trong phiên 14/3. Dù vậy, hợp đồng này vẫn ghi nhận mức tăng 4,8% trong tuần. Đường trắng (SF1!) nhích lên 0,5%, chốt phiên ở mức 541,50 USD/tấn, nâng mức tăng cả tuần lên 3,1%.
Đà tăng được hỗ trợ bởi những lo ngại về tình trạng mưa lớn tại Brazil, quốc gia sản xuất đường lớn nhất thế giới và sản lượng đường Ấn Độ suy giảm. Theo Hiệp hội Các nhà máy đường Ấn Độ, sản lượng đường nước này có thể chỉ đạt 26,4 triệu tấn trong mùa vụ hiện tại, thấp hơn 2,94% so với ước tính trước đó.
Trên thị trường cà phê, hợp đồng cà phê Arabica (KC2!) giảm 8,5 cent (-2,2%) xuống 3,772 USD/pound và giảm 1,8% trong tuần. Cà phê Robusta (RC2!) dù giảm 2,4% trong phiên, nhưng vẫn ghi nhận mức tăng 1% trong tuần.
Rabobank dự báo, lượng cà phê Arabica và Robusta được chứng nhận ICE sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, gây áp lực lên giá. Công ty Môi giới Marex cũng lưu ý rằng, xuất khẩu cà phê từ Brazil trong tháng 2/2025 thấp hơn mức trung bình 5 năm lần đầu tiên kể từ cuối năm 2023.
Trên sàn ICE, giá ca cao kỳ hạn chạm mức thấp nhất trong 4 tháng vào phiên 14/3. Cụ thể, ca cao London (C2!) giảm 259 bảng (-4,1%) xuống 6.082 bảng/tấn và cả tuần giảm 7% - nối tiếp mức giảm 11% của tuần trước nữa. Ca cao New York (CC2!) cũng không nằm ngoài xu hướng khi giảm 3,7% về 7.867 USD/tấn và giảm 5% cả tuần, nối tiếp mức giảm 9% của tuần trước nữa.
Lượng hàng tồn kho được chứng nhận ICE (CC-TOT-TOTB) tăng lên mức cao nhất kể từ đầu tháng 1/2025, gây áp lực lên giá. Cùng với đó, dự báo thời tiết thuận lợi tại Bờ Biển Ngà, Ghana và khu vực phía Nam Nigeria, với lượng mưa gia tăng trong 10 ngày tới, càng làm suy yếu đà tăng giá.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng mạnh vào thứ Sáu (14/3) do khả năng nguồn cung giảm và hy vọng về các biện pháp kích thích của Trung Quốc. So với tuần trước nữa, giá không thay đổi nhiều trong bối cảnh các nhà đầu tư xem xét tác động của thuế quan tăng.
Cụ thể, hợp đồng cao su tháng 8/2025 tại Sở giao dịch chứng khoán Osaka (OSE) tăng 12,5 JPY (+3,71%) lên 349,7 JPY (2,35 USD)/kg vào thứ Sáu, tính chung cả tuần giá không đổi. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 5/2025 trên Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải (SHFE) tăng 40 CNY (+0,23%) lên 17.180 CNY (2.374,04 USD)/tấn.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
![]() |
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |