
Năng lượng: Giá dầu giảm 3%, khí LNG nhích tăng, than biến động trái chiều
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm vào thứ Sáu (5/9) do báo cáo việc làm yếu kém của Mỹ làm giảm triển vọng nhu cầu năng lượng, trong khi nguồn cung tiếp tục tăng sau cuộc họp của OPEC và các nhà sản xuất đồng minh (OPEC+) vào cuối tuần.
Cụ thể, giá dầu thô Brent tương lai đóng cửa phiên 5/9 giảm 1,49 USD (-2,22%) về 65,5 USD/thùng; dầu thô ngọt nhẹ West Texas Intermediate (WTI) của Mỹ giảm 1,61 USD (-2,54%) về 61,87 USD/thùng. Tính chung cả tuần, giá 2 loại dầu giảm khoảng 3%.
OPEC+ đã tăng sản lượng kể từ tháng 4 sau nhiều năm cắt giảm để hỗ trợ thị trường dầu mỏ. Theo đó, 8 thành viên OPEC+ đã nhất trí về việc tăng sản lượng từ tháng 10 thêm 137.000 thùng/ngày, thấp hơn nhiều so với mức tăng hàng tháng khoảng 555.000 thùng/ngày trong hai tháng 9, 8 và 411.000 thùng/ngày trong hai tháng 7, 6.
Thỏa thuận cũng đồng nghĩa với việc OPEC+ đã bắt đầu nới lỏng đợt cắt giảm sản lượng, khoảng 1,65 triệu thùng/ngày, sớm hơn dự kiến hơn một năm. Nhóm này đã hoàn toàn nới lỏng đợt cắt giảm đầu tiên, trị giá 2,5 triệu thùng/ngày, kể từ tháng 4/2025, tương đương khoảng 2,4% nhu cầu toàn cầu. Việc tăng sản lượng đã tác động tới giá dầu giảm khoảng 15% từ đầu năm đến nay, đẩy lợi nhuận của các công ty dầu mỏ xuống mức thấp.
Cục Thống kê Lao động thuộc Bộ Lao động Mỹ cho biết trong báo cáo việc làm được theo dõi chặt chẽ hôm thứ Sáu rằng, bảng lương phi nông nghiệp của Mỹ chỉ tăng 22.000 việc làm trong tháng 8 sau khi tăng 79.000 việc làm trong tháng 7 (đã được điều chỉnh tăng). Số liệu việc làm ban đầu trong tháng 8 có xu hướng yếu, với các điều chỉnh sau đó cho thấy sự tăng trưởng. Các ước tính dao động từ không có đến 144.000 việc làm được tạo ra. Báo cáo việc làm yếu kém sẽ gây áp lực buộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) phải cắt giảm lãi suất và đây là “một điểm dữ liệu không tốt cho thị trường dầu”.
Rủi ro nguồn cung vẫn đang hỗ trợ thị trường. Tổng thống Mỹ Donald Trump đã nói với các nhà lãnh đạo châu Âu hôm thứ Năm rằng, châu Âu phải ngừng mua dầu của Nga, một quan chức Nhà Trắng cho biết. Bất kỳ sự cắt giảm nào đối với xuất khẩu dầu thô của Nga hoặc sự gián đoạn nguồn cung khác đều có thể đẩy giá dầu toàn cầu lên tăng.
Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) giao ngay tại châu Á giữ ổn định trong tuần qua do nhu cầu trong khu vực vẫn yếu, trong khi thỏa thuận cung cấp khí đốt giữa Nga và Trung Quốc được cho là sẽ hạn chế việc Trung Quốc nhập khẩu LNG trong tương lai.
Theo đó, giá LNG trung bình giao tháng 10 tới Đông Bắc Á trong tuần quan ở mức 11,30 USD/triệu đơn vị nhiệt Anh (mmBtu), tăng nhẹ so với mức 11,15 USD/mmBtu của tuần trước nữa.
Trên thị trường than, trong tuần qua, các chỉ số than nhiệt châu Âu đã giảm mạnh, ổn định ở dưới mức 93 USD/tấn - đánh dấu mức thấp nhất trong 3 tháng qua trong bối cảnh lượng than tồn kho tại các cảng ARA tăng. Các công ty điện lực báo cáo lượng than tồn kho đầy đủ cho quý IV/2025.
Giá than CV 6.000 cao của Nam Phi đã giảm trở lại mức 84-85 USD/tấn do giá giảm ở châu Âu và nguồn cung tăng. Giá chào hàng đạt mức thấp mới trong 4 tháng. Cước phí vận chuyển cao cũng hạn chế hoạt động của các nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, giá than nhiệt lượng CV trung bình đã tăng khi một số người mua bắt đầu tìm hiểu về các lô hàng giao trong tháng 9, dự đoán nhu cầu sẽ phục hồi sau mùa gió mùa ở Ấn Độ.
Tại Trung Quốc, giá giao ngay than 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo đã tăng lên 99 USD/tấn, tiếp tục tăng do sản lượng giảm và thời tiết mưa lớn. Lượng than tồn kho tại 9 cảng lớn nhất nước này đã giảm xuống mức thấp kỷ lục mới trong năm là 23,08 triệu tấn (-0,36 triệu tấn so với tuần trước nữa), trong khi lượng than tồn kho tại 6 nhà máy nhiệt điện ven biển lớn nhất đạt tổng cộng 13,49 triệu tấn (-0,10 triệu tấn so với tuần trước nữa). Lượng tiêu thụ hàng ngày tăng lên 941 nghìn tấn/ngày (+29 nghìn tấn/ngày so với tuần trước nữa).
Giá than Indonesia 5.900 GAR tăng 1 USD/tấn lên 75 USD/tấn, trong khi giá than 4.200 GAR vẫn giữ nguyên ở mức 43 USD/tấn của tuần trước nữa, được hỗ trợ bởi giá cả và nhu cầu tăng tại Trung Quốc và các nước khác ở châu Á - Thái Bình Dương.
Giá than Indonesia vẫn giữ nguyên. Nhu cầu từ Trung Quốc và Ấn Độ còn hạn chế, nhưng được bù đắp bởi Việt Nam, Philippines và các giao dịch mua lẻ tại Đông Bắc Á. Hơn nữa, các thương nhân và nhà sản xuất không muốn giảm giá, họ muốn giữ lại nguyên liệu hơn là bán với giá thấp hơn.
Giá than nhiệt loại 6.000 CV cao của Úc tiếp tục giao dịch trong khoảng 109-110 USD/tấn, trong khi giá than nhiệt loại 5.500 CV trung bình ổn định ở mức 71-72 USD/tấn. Khả năng phục hồi của giá than nhiệt Úc được củng cố bởi nguồn cung hạn chế và sự hỗ trợ từ các khách hàng châu Á, bao gồm Hàn Quốc và Nhật Bản.
Chỉ số than luyện kim HCC của Úc tiếp tục điều chỉnh giảm xuống 186 USD/tấn do nguồn cung tăng. Các bên tham gia thị trường cho biết nhu cầu đối với các lô hàng mới bị hạn chế.
Kim loại: Vàng tăng mạnh nhất 4 tháng, đồng và quặng sắt, thép cũng đi lên
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng mạnh vào thứ Sáu (5/9) lên gần sát 3.600 USD/ounce do dữ liệu việc làm yếu kém của Mỹ càng làm tăng kỳ vọng về Fed cắt giảm lãi suất - điều sẽ hỗ trợ vàng thỏi.
Cụ thể, giá vàng giao ngay tăng 1,4% lên 3.596,55 USD/ounce trong phiên 5/9, sau khi đạt mức kỷ lục 3.599,89 USD trước đó và cả tuần tăng 4,15% - mạnh nhất trong gần 4 tháng. Giá vàng kỳ hạn giao tháng 12 tăng 1,3% lên 3.653,30 USD/ounce.
Giá vàng thỏi tăng 37% từ đầu năm đến nay sau khi tăng 27% trong năm 2024 xuất phát từ những nguyên nhân như đồng USD suy yếu, hoạt động mua vào của các ngân hàng trung ương, bối cảnh chính sách tiền tệ nới lỏng, bất ổn địa chính trị và kinh tế ở nhiều nơi trên thế giới.
Dữ liệu cho thấy tăng trưởng việc làm của Mỹ đã suy yếu mạnh trong tháng 8, trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 4,3% - xác nhận điều kiện thị trường lao động đang dịu đi. Các nhà giao dịch đặt cược 90% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản và 10% khả năng cắt giảm 50 điểm cơ bản vào tháng 9.
Vàng thỏi thường tỏa sáng khi lãi suất thấp và bất ổn cao, khiến nó trở thành tài sản an toàn cho các nhà đầu tư tìm kiếm sự an toàn.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,8% lên 40,98 USD/ounce và tăng tuần tăng thứ ba liên tiếp; bạch kim tăng 0,5% lên 1.373,92 USD/ounce; trong khi palladium giảm 1,5% xuống 1.110,32 USD/ounce.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng ổn định trong phiên 5/9, được hỗ trợ bởi đồng USD giảm mạnh sau khi dữ liệu việc làm quan trọng cho thấy khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào cuối tháng này là chắc chắn.
Cụ thể, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch him loại London (LME) phiên này không đổi ở mức 9.893 USD/tấn. Hợp đồng này đã chạm mức cao nhất 5 tháng là 10.038 USD/tấn vào ngày 3/9 khi thị trường gia tăng kỳ vọng Mỹ sắp cắt giảm lãi suất.
Lãi suất giảm cải thiện triển vọng cho các kim loại phụ thuộc vào tăng trưởng, trong khi USD yếu đi, gần đây giảm 0,6% - khiến kim loại được định giá bằng USD trở nên hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Giá đồng đang dao động trong biên độ hẹp quanh ngưỡng tâm lý 10.000 USD/tấn. Alastair Munro - chiến lược gia kim loại cơ bản cấp cao tại Marex cho biết, các nhà sản xuất đồng sẽ bán ra khi giá chạm mức năm con số, nhưng người mua Trung Quốc sẽ tận dụng mức giảm để mua vào.
Tại Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, giá đồng Yangshan, phản ánh nhu cầu đồng nhập khẩu vào nước này, đã ổn định vào thứ Sáu ở mức cao nhất trong 3 tháng.
Thêm một yếu tố hỗ trợ giá là một trong những nhà máy luyện đồng hàng đầu của Nhật Bản - JX Advanced Metals 5016 cho biết, có khả năng sẽ cắt giảm sản lượng đồng hàng chục nghìn tấn trong năm tài chính kết thúc vào tháng 3/2026 do nguồn cung đồng cô đặc khan hiếm.
Tại Mỹ, lượng hàng tồn kho Comex sở hữu, vốn đã ở mức cao nhất trong 22 năm, tiếp tục tăng trong tuần qua do mức chênh lệch giữa giá đồng tương lai Comex và giá chuẩn LME vẫn còn ở mức 1-2%. Mức chênh lệch giá giữa 2 sàn giảm vào cuối tháng 7 khi Washington loại trừ kim loại đồng tinh luyện khỏi thuế nhập khẩu đối với một số sản phẩm đồng, nhưng chưa đủ để gây ra tình trạng tháo chạy khỏi kho dự trữ của Mỹ, một nhà giao dịch đồng cho biết.
Lượng hàng tồn kho tại các kho do LME đăng ký nhìn chung ổn định, tăng 74% kể từ cuối tháng 6 và duy trì mức chênh lệch cho giá đồng kỳ hạn 3 tháng CMCU0-3 ở mức 68 USD/tấn.
Về các kim loại khác tại sàn LME, giá nhôm tăng 0,4% lên 2.602,5 USD/tấn; kẽm tăng 0,6% lên 2.860,5 USD/tấn; chì giảm 0,1% về 1.984 USD/tấn; thiếc giảm 0,9% về 34.250 USD/tấn; niken tăng 0,3% lên 15.280 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt nối dài đà tăng 4 phiên liên tiếp trong tuần qua. Hợp đồng thép tháng 10 (SZZFV5) tại Singapore nhích tăng 0,28% lên 105,1 USD/tấn, còn hợp đồng thép tháng 1/2026 trên sàn Đại Liên - Trung Quốc (DCE) tăng 0,77% lên 789,5 CNY/tấn. Tính chung cả tuần, quặng sắt tăng khoảng 1,6% nhờ USD yếu và kỳ vọng Mỹ sớm nới lỏng chính sách tiền tệ.
Đà đi lên của quặng sắt còn được hỗ trợ bởi giá than luyện cốc và than cốc tăng mạnh, lần lượt 6,3% và 4,7%. Dù vậy, sản lượng gang trung bình tại Trung Quốc giảm 4,7% xuống 2,29 triệu tấn/ngày trong tuần đầu tháng 9 - thấp nhất hơn nửa năm, cho thấy nhu cầu quặng vẫn chưa bứt phá.
Tương tự, giá thép cây giao tháng 6/2026 trên sàn Thượng Hải (SHFE) tăng nhẹ lên 3.187 CNY/tấn. Các sản phẩm khác như thép cuộn cán nóng, thép thanh và dây thép cũng đồng loạt tăng quanh 1%, trong khi thép không gỉ giảm 0,3%.
Theo giới phân tích, thị trường thép - quặng sắt vẫn giằng co giữa lực hỗ trợ và áp lực điều chỉnh. Đồng USD suy yếu cùng kỳ vọng Fed hạ lãi suất tiếp tục là động lực chính, trong khi nhu cầu yếu tại Trung Quốc và nguồn cung dồi dào có thể kìm hãm đà tăng trong thời gian tới.
Nông sản: Đồng loạt giảm giá
Kết thúc phiên cuối tuần 5/9, giá ngô trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) suy yếu khi lực hỗ trợ từ hoạt động mua bù bán khống giảm dần, trong lúc giới đầu tư điều chỉnh vị thế trước báo cáo mùa vụ của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) công bố ngày 12/9. Kết phiên, giá ngô kỳ hạn tháng 12 CBOT (CZ25) giảm 1,75 cent về 4,18 USD/giạ và giảm 0,5% trong tuần.
Thị trường vẫn chịu áp lực từ triển vọng mùa màng bội thu, dù một số phân tích cho rằng, thời tiết khô hạn và dịch bệnh có thể hạn chế năng suất. S&P Global Commodity Insights ước tính, sản lượng ngô Mỹ năm 2025 đạt 16,768 tỷ giạ với năng suất trung bình 189,1 giạ/mẫu, cao hơn dự báo tháng 8 của USDA. Trái lại, một số tổ chức tư nhân như Allendale và StoneX đưa ra mức thấp hơn.
Nhu cầu xuất khẩu phần nào hỗ trợ giá, khi doanh số bán ngô vụ mới đạt 2,117 triệu tấn trong tuần kết thúc ngày 28/8/2025, cao hơn 86% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, xuất khẩu của Brazil tháng 9 được dự báo giảm 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 6,37 triệu tấn.
Đậu tương kỳ hạn CBOT cũng giảm khi nhu cầu xuất khẩu chậm lại và áp lực bán kỹ thuật gia tăng, trong khi thị trường chờ báo cáo cung cầu hàng tháng của USDA vào ngày 12/9.
Cụ thể, giá đậu nành giao tháng 11 (SX25) giảm 6 cent về 10,27 USD/giạ và giảm 2,6% trong tuần sau khi xuyên thủng ngưỡng hỗ trợ kỹ thuật. Giá bột đậu nành tháng 12 (SMV1) tăng 30 cent lên 284 USD/tấn ngắn, trong khi dầu đậu nành tháng 12 (BOZ25) giảm 0,7 cent về 51,23 cent/pound.
Theo S&P Global Commodity Insights, sản lượng đậu nành Mỹ năm 2025 có thể đạt 4,306 tỷ giạ với năng suất trung bình 53,8 giạ/mẫu, cao hơn dự báo trước đó của USDA. Song, một số đơn vị như Allendale và StoneX lại đưa ra con số thấp hơn.
Trong tuần kết thúc ngày 28/8/2025, doanh số xuất khẩu đậu nành vụ mới đạt 818.474 tấn - thấp nhất trong một tháng. Trung Quốc chưa mua thêm hàng Mỹ mà chuyển sang đặt hàng từ Brazil, nơi xuất khẩu tháng 9 dự kiến đạt 6,75 triệu tấn, tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái.
Tương tự, giá lúa mì kỳ hạn rơi xuống dưới 5 USD/giạ - thấp nhất kể từ tháng 8/2020, do nguồn cung toàn cầu dư thừa và nhu cầu chậm lại. Nguồn cung từ Nga dự kiến sẽ tiếp tục chiếm ưu thế trên thị trường Biển Đen, trong khi sản lượng tại Úc được dự báo vượt mức trung bình nhiều năm.
Tại châu Âu, Bộ Nông nghiệp Đức ước tính, sản lượng lúa mì vụ Đông tăng 26% so với năm trước. Thời tiết mưa thuận lợi gần đây cũng hỗ trợ gieo trồng tại Bắc Bán cầu, làm giảm bớt lo ngại về tình trạng khô hạn mùa hè. Ngoài ra, triển vọng nhu cầu từ Trung Quốc vẫn mờ nhạt, gây áp lực chung lên nhóm ngũ cốc và hạt có dầu.
Nguyên liệu công nghiệp: Ca cao và cao su tăng giá, cà phê Robusta lao dốc, đường cũng đi xuống
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô giảm 0,14 cent (-0,9%) xuống còn 15,55 cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất trong 2 tháng là 15,51 cent/lb. Giá đường trắng giảm 0,8% xuống 478,50 USD/tấn.
Triển vọng vụ mía ở Ấn Độ và Thái Lan vẫn thuận lợi sau những trận mưa đúng lúc năm nay, trong khi các nhà máy mía Brazil tiếp tục ưu tiên sản xuất đường hơn là ethanol khi có thể, BMI - một đơn vị thuộc Fitch Solutions nhận định.
Trên sàn New York, giá cà phê Arabica kỳ hạn (RC2!) giảm về mức 3,85 USD/pound vào cuối tuần, khi thị trường chờ đợi quyết định về mức thuế 50% mà Tổng thống Mỹ Donald Trump đề xuất đối với hàng nhập khẩu từ Brazil - quốc gia cung ứng lớn nhất.
Thị trường trước đó ghi nhận biến động mạnh, đạt đỉnh 3 tháng vào tháng 8 rồi hạ nhiệt trong tháng 9. Giá vẫn chịu ảnh hưởng bởi tình trạng tồn kho được chứng nhận sụt giảm, lo ngại nguồn cung, cùng hoạt động mua bán mang tính đầu cơ.
Niên vụ 2025-2026, sản lượng Arabica của Brazil dự báo đạt 35,2 triệu bao, giảm 11,2% so với trước. Tuy nhiên, sản lượng tổng thể được kỳ vọng tăng nhẹ nhờ cải thiện năng suất. Các yếu tố thời tiết như hạn hán, mưa thất thường và nguy cơ sương giá tiếp tục tạo áp lực, trong bối cảnh tồn kho toàn cầu đang ở mức thấp kỷ lục. Nguồn cung thay thế hạn chế cùng lượng tồn kho khan hiếm vẫn giữ vai trò hỗ trợ giá trong ngắn hạn.
Trên sàn London, giá cà phê Robusta giảm sâu trong phiên 5/9. Hợp đồng cà phê Robusta kỳ hạn tháng 9/2025 chốt phiên ở mức 4.468 USD/tấn và giảm 533 USD (-10,7%) so với tuần trước nữa. Hợp đồng cà phê Robusta tháng 11/2025 cũng giảm 506 USD (-10,5%) xuống còn 4.309 USD/tấn.
Tại Indonesia, giá cà phê Robusta Sumatra tăng giá cộng trong tuần này. Một số thương nhân cho biết, hạt Robusta được chào bán cao hơn 50 USD/tấn so với hợp đồng tháng 10 trên sàn London, tăng từ mức cộng 30 USD của tuần trước nữa. Xuất khẩu Robusta trong tháng 7 đạt 31.975 tấn, tăng 70% cùng kỳ năm trước.
Trong khi đó, giá ca cao kỳ hạn (CC2!) tăng lên 7.250 USD/tấn, duy trì gần vùng thấp nhất kể từ tháng 11/2024. Lo ngại về nguồn cung hạn chế và thời tiết bất lợi tại Tây Phi là yếu tố chính nâng giá.
Tồn kho toàn cầu ở mức eo hẹp, trong khi nhu cầu tiêu thụ cuối năm vẫn ổn định. Sản xuất tại các nước trồng ca cao lớn gặp nhiều khó khăn do lượng mưa không đều và dịch bệnh cây trồng, làm gia tăng rủi ro thiếu hụt nguồn cung.
Mặc dù một số tín hiệu kỹ thuật thúc đẩy hoạt động mua trở lại, nhưng khảo sát của Reuters dự báo, giá có thể giảm vào cuối năm 2025 do nhu cầu yếu, dẫn đến thặng dư lớn hơn trong vụ 2025-2026.
Tại Bờ Biển Ngà, sản lượng ca cao dự kiến đạt 1,84 triệu tấn trong năm 2025, tăng từ 1,76 triệu tấn năm 2024, trong khi Ghana có thể đạt 600.000 tấn năm nay so với mức 595.000 tấn năm trước.
Giá cao su đi lên trong tuần qua, với bối cảnh lo ngại dai dẳng về nguồn cung do thời tiết bất lợi tại các khu vực sản xuất chính.
Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 2/2026 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 4,3 JPY (+ 1,34%) lên 324,1 JPY (2,20 USD)/kg và cả tuần tăng 1,49%. Hợp đồng cao su giao tháng 1/2026 trên sàn SHFE tăng 445 CNY (+ 2,8%) lên 16.325 CNY (2.282,29 USD)/tấn; hợp đồng cao su butadien giao tháng 10 trên sàn này tăng 410 CNY (+3,47%,) lên 12.210 CNY/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 10 trên sàn Singapore tăng 1,9% lên 178,4 US cent/kg.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đã ký một sắc lệnh hành pháp nhằm giảm thuế đối với ô tô Nhật Bản từ 27,5% xuống 15%. Hàn Quốc cũng đang chờ đợi một thỏa thuận tương tự để giảm thuế ô tô từ 25% xuống 15%. Doanh số bán ô tô có thể ảnh hưởng đến cường độ sản xuất xe, vốn liên quan đến việc sử dụng lốp xe cao su.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
![]() |
(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |