Năng lượng: Giá dầu và khí LNG tiếp tục giảm
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm trong phiên cuối tuần qua (4/11) khi mối lo ngại về nguồn cung giảm bớt do căng thẳng ở Trung Đông suy giảm, trong khi số liệu việc làm dấy lên kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể tăng lãi suất tại nền kinh tế tiêu thụ dầu lớn nhất.
Cụ thể, đóng cửa phiên nay, dầu thô Brent giảm 1,92 USD (-2,3%) xuống 84,89 USD/thùng và dầu thô Tây Texas (WTI) giảm 1,95 USD (-2,4%) xuống 80,51 USD/thùng. Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều giảm hơn 6%.
Tăng trưởng việc làm của Mỹ chậm hơn dự kiến trong tháng 10/2023, trong khi lạm phát tiền lương hạ nhiệt, cho thấy điều kiện thị trường lao động giảm bớt.
Về phía nguồn cung, các nhà phân tích kỳ vọng nhà xuất khẩu dầu hàng đầu Ả Rập Xê-út sẽ xác nhận lại việc gia hạn cắt giảm sản lượng dầu tự nguyện 1 triệu thùng mỗi ngày cho đến tháng 12/2023.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm khoảng vào thứ Năm (2/11) do sản lượng kỷ lục và dự báo thời tiết ôn hòa hơn và nhu cầu sưởi ấm vào tuần tới thấp hơn dự kiến trước đó.
Sự sụt giảm giá đó diễn ra ngay cả khi kho dự trữ trong tuần trước lớn hơn bình thường vào thời điểm này trong năm và khi lượng khí đốt đến các nhà máy xuất khẩu LNG của Mỹ tăng lên mức cao gần kỷ lục.
Cụ thể, giá LNG giao tháng 12/2023 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 2,2 cent (-0,6%) xuống 3,472 USD/mmBtu.
LSEG cho biết sản lượng khí đốt trung bình tại 48 bang của Mỹ đã tăng lên 106,1 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) từ đầu tháng 11/2023 đến nay, tăng từ mức kỷ lục 104,2 bcfd trong tháng 10/2023.
Dòng khí tới 7 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 14,8 bcfd từ đầu tháng 11/2023 đến nay, tăng từ 13,7 bcfd trong tháng 10 và mức kỷ lục 14 bcfd trong tháng 4/2023.
Kim loại: Vàng duy trì đà tăng; quặng sắt, thép cũng đi lên; kim loại màu biến động trái chiều
Ở nhóm kim loại quý, đà tăng giá vàng được duy trì trong tuần qua do USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm, sau số liệu việc làm yếu kém của Mỹ làm dấy lên kỳ vọng Fed sẽ thực hiện việc tăng lãi suất.
Cụ thể, vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,4% lên 1.994,28 USD/ounce, sau khi đạt mức cao 2.003,69 USD/ounce và vàng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn New York tăng 0,3% lên 1.999,2 USD/ounce.
Số liệu cho thấy, các nhà tuyển dụng đã tạo thêm 150.000 việc làm trong tháng 10/2023, thấp hơn mức dự kiến 180.000 của các nhà kinh tế.
Giá vàng tăng được hỗ trợ bởi chỉ số USD giảm 1% và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 tháng.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng trên sàn LME tăng do USD tiếp tục suy yếu sau số liệu việc làm của Mỹ, làm lu mờ tác động giảm giá từ tồn trữ đồng tăng.
Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng tăng 0,4% lên 8.173 USD/tấn và cả tuần tăng 0,9% và có tuần tăng thứ 2 liên tiếp.
Tuy nhiên, tính từ đầu năm đến nay giá đồng giảm 2,4% do nhu cầu phục hồi không đồng đều tại Trung Quốc - nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới.
Việc USD giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9/2023, sau số liệu cho thấy nền kinh tế lớn nhất thế giới tạo ít việc làm hơn dự kiến trong tháng 10/2023, củng cố kỳ vọng Fed sẽ tạm dừng tăng lãi suất một lần nữa tại cuộc họp tháng 12/2023.
Cũng trên sàn LME, giá chì tăng 2,1% lên 2.168 USD/tấn, sau khi đạt mức 2.174 USD/tấn - cao nhất kể từ ngày 9/10/2023 và có tuần tăng thứ 3 liên tiếp.
Giá kẽm giảm so với mức tăng đạt được sau khi Nyrstar có trụ sở tại Hà Lan cho biết họ có kế hoạch tạm thời đóng cửa 2 mỏ kẽm của Mỹ. Cụ thể, giá kẽm trên sàn LME giảm 0,9% xuống 2.477,5 USD/tấn sau khi chạm mức cao nhất 1 tháng trong phiên trước đó.
Giá nhôm giảm 0,4% xuống 2.228 USD/tấn và nikel giảm 0,3% xuống 17.955 USD/tấn, trong khi giá thiếc tăng 0,2% lên 23.965 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng và có tuần tăng thứ 2 liên tiếp, được củng cố bởi sự lạc quan về các biện pháp kích thích và các yếu tố cơ bản hỗ trợ tại nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc, song mức tăng bị hạn chế bởi lo ngại về sự giám sát của chính phủ nước này.
Cụ thể, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Đại Liên tăng 0,43% lên 924,5 CNY (126,38 USD)/tấn, sau khi đạt mức cao 936 CNY/tấn trong đầu phiên giao dịch. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt tăng 2,7%.
Trong khi đó, trên sàn Singapore, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2023 thay đổi nhẹ ở mức 122,5 USD/tấn và cả tuần tăng 0,6%.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,41%; thép cuộn cán nóng tăng 1,19%; thép cuộn tăng 0,78% và thép không gỉ tăng 1,57%.
Nông sản: Đồng loạt tăng giá
Giá đậu tương tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 6,5 tuần - được hỗ trợ bởi thời tiết bất lợi tại nước sản xuất đậu tương hàng đầu Brazil và nhu cầu xuất khẩu mới đối với nguồn cung của Mỹ, cùng với đó là USD giảm thúc đẩy giá ngô và lúa mì tăng.
Cụ thể, trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 23-1/2 US cent lên 13,51-3/4 USD/bushel, sau khi đạt 13,55 USD/bushel - cao nhất kể từ ngày 18/9/2023.
Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 7-1/4 US cent lên 4,77-1/4 USD/bushel, sau khi giảm xuống 4,68 USD/bushel - thấp nhất 6 tuần.
Giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2023 tăng 7 US cent lên5,72-1/2 USD/bushel.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường và cà phê tiếp tục tăng, dầu cọ tăng cao nhất 6,5 tuần
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE tăng 0,29 US cent (+1,1%) lên 27,77 US cent/lb.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn London tăng 12,6 USD (+1,7%) lên 757,6 USD/tấn.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE tăng lên mức cao nhất 6,5 tuần được thúc đẩy bởi tồn trữ giảm xuống mức thấp mới 24 năm.
Cụ thể, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn ICE tăng 5,55 US cent (+3,4%) lên 1,709 USD/lb, sau khi đạt mức cao nhất 6,5 tuần (1,7135 USD/lb). Đồng thời, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn London tăng 44 USD (+1,9%) lên 2.372 USD/tấn.
Giá dầu cọ tại Malaysia chịu áp lực giảm bởi tồn trữ tăng và nhập khẩu dầu thực vật của Ấn Độ giảm.
Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Bursa Malaysia giảm 4 ringgit (-0,1%) về 3.779 ringgit (799,62 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá mạt hàng này vẫn tăng 0,1% - tuần tăng thứ 4 liên tiếp.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |