
Năng lượng: Dầu thô bật mạnh, khí LNG giảm nhẹ
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới giảm 2 USD/thùng vào thứ Sáu (1/8) và tính chung trong tuần tăng khoảng 6%.
Cụ thể, giá dầu thô Brent giảm 2,03 USD/thùng (-2,83%) về 69,67 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 1,93 USD/thùng (-2,79%) về 67,33 USD/thùng. Tuy vậy, trong tuần, dầu Brent vẫn tăng gần 6% và dầu WTI tăng 6,29%.
Vào ngày 3/8, OPEC và các nhà sản xuất lớn OPEC+ đã quyết định tăng sản lượng thêm 548.000 thùng/ngày trong tháng 9 tới, động thái mới nhất trong một loạt các đợt tăng sản lượng được đẩy nhanh nhằm giành lại thị phần, trong bối cảnh lo ngại gia tăng về khả năng gián đoạn nguồn cung.
Qua đó, đánh dấu sự đảo ngược hoàn toàn và sớm của đợt cắt giảm sản lượng lớn nhất của OPEC+, cộng với việc tăng sản lượng riêng cho UAE lên tới khoảng 2,5 triệu thùng/ngày, tương đương khoảng 2,4% nhu cầu thế giới.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm do dự báo thời tiết sẽ bớt nóng hơn trong những tuần tới so với dự kiến trước đó, điều này sẽ làm giảm nhu cầu nhiên liệu.
Cụ thể, giá LNG tương lai giao tháng 9/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 0,7% xuống 3,08 USD/mmBTU.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty năng lượng đã bổ sung 48 tỷ feet khối khí đốt vào kho lưu trữ trong tuần kết thúc vào ngày 25/7. Con số này lớn hơn nhiều so với mức dự báo 37 tỷ feet khối khí đốt của các nhà phân tích trong một cuộc thăm dò của Reuters và cao hơn gấp đôi so với mức bơm 18 tỷ feet khối khí đốt trong cùng tuần năm ngoái. Đồng thời, cao gấp đôi mức bơm trung bình 24 tỷ feet khối khí đốt trong giai đoạn 2020-2024. Việc tăng dự trữ này khiến lượng dự trữ tăng khoảng 6,7% so với mức bình thường 5 năm vào thời điểm này trong năm.
LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ là 106,5 tỷ feet khối mỗi ngày trong tháng 8, so với mức kỷ lục hàng tháng trước đó là 107,5 bcfd được thiết lập vào tháng 7.
Kim loại: Vàng lên cao nhất tuần, đồng giảm mạnh nhất lịch sử, thép ngắt chuỗi tăng 5 tuần, quặng sắt diễn biến trái chiều
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng 2%, đạt mức cao nhất trong 1 tuần vào ngày thứ Sáu (1/8), sau khi dữ liệu việc làm của Mỹ yếu kém hơn dự báo đã thúc đẩy kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hạ lãi suất và các thông báo thuế quan mới đã thúc đẩy nhu cầu trú ẩn an toàn.
Cụ thể, giá vàng giao ngay tăng 2,1% lên 3.359,77 USD/ounce - mức cao nhất kể từ ngày 25/7/2025 và tăng 0,4% trong tuần. Hợp đồng vàng tương lai tăng 1,9% lên 3.413,3 USD/ounce.
Số liệu việc làm thấp hơn kỳ vọng, nhưng cao hơn một chút so với thị trường đang công bố, cho thấy khả năng Fed sẽ hạ lãi suất vào cuối năm nay. Vàng - một tài sản không đem lại lợi suất, có xu hướng hoạt động tốt trong môi trường lãi suất thấp.
Về thương mại, làn sóng áp thuế quan mới nhất của Tổng thống Mỹ Donald Trump đối với hàng xuất khẩu từ hàng chục đối tác thương mại, bao gồm Canada, Brazil, Ấn Độ và Đài Loan (Trung Quốc), đã khiến thị trường toàn cầu lao dốc khi các nước thúc đẩy đàm phán để đạt được thoả thuận tốt hơn. Vàng là tài sản trú ẩn an toàn thường phát triển mạnh trong thời kỳ bất ổn kinh tế và địa chính trị.
Ở nhóm kim loại màu, thị trường tiếp tục chứng kiến áp lực bán lan rộng. Đáng chú ý, giá đồng COMEX bất ngờ lao dốc hơn 22%, rơi xuống mức 4,35 USD/pound (tương đương 9.600 USD/tấn), đánh dấu mức giảm sâu nhất trong lịch sử.
Cú sụt mạnh đã xóa sạch toàn bộ mức chênh lệch giữa giá đồng COMEX và đồng LME, vốn từng mở rộng tới 26% vào hôm thứ Hai đầu tuần (28/7). Hiện, giá đồng COMEX đang ở mức thấp nhất kể từ giữa tháng 4/2025.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đã áp thuế 50% đối với các sản phẩm đồng bán thành phẩm như ống, dây, thanh, tấm và ống từ ngày 1/8/2025, nhưng miễn thuế cho các dạng kim loại ít được chế biến hơn gồm quặng, tinh quặng và catốt. Mức chênh lệch lớn giữa giá tương lai tại New York và London đã biến mất.
Các nhà giao dịch hiện đang gấp rút đặt chỗ lưu trữ đồng với kỳ vọng rằng, quyết định của ông Trump sẽ thúc đẩy một làn sóng nguồn cung đồng đang được tích trữ tại Mỹ được chuyển đến các kho của sàn LME. Lượng kim loại dự trữ tại các kho do sàn LME, Comex và sàn Thượng Hải (SHFE) giám sát đã phục hồi trong tháng 7 sau khi giảm trong 4 tháng trước đó.
Cũng trên sàn LME, giá nhôm giảm 0,5% về 2.552 USD/tấn; kẽm giảm 1,4% về 2.723 USD/tấn; chì giảm 0,2% về 1.965,5 USD/tấn; trong khi thiếc tăng 1,1% lên 32.970 USD/tấn; niken giảm 0,5% về 14.855 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn đã khép lại tuần tăng thứ 5 liên tiếp, vượt qua áp lực giảm ban đầu, dù lượng hàng tồn kho tại cảng tăng và sản lượng thép toàn cầu sụt giảm.
Cụ thể, hợp đồng thép cây giao tháng 4/2026 trên sàn SHFE giảm 25 CNY về 3.369 CNY/tấn. Trên sàn Đại Liên (DCE), giá quặng sắt tháng 9 giảm 0,19% về 783 CNY (108,6 USD)/tấn và giảm 2,1% cả tuần.
Tại sàn Singapore, hợp đồng quặng sắt tháng 9 (mã SZZFU5) tăng 0,49% lên 100,25 USD/tấn, nhưng cả tuần vẫn giảm gần 3%.
Các nguyên liệu đầu vào như than cốc và than mỡ trên sàn Đại Liên lần lượt giảm mạnh 8,88% và 3%. Trong khi đó, thép cây trên sàn SHFE giảm 1,2%; thép cuộn cán nóng và dây cán cùng giảm 0,6%. Riêng thép không gỉ giữ mức ổn định.
Tâm lý thị trường tiếp tục chịu ảnh hưởng sau cuộc họp tháng 7 của Bộ Chính trị Trung Quốc khi không có thêm biện pháp hỗ trợ ngành bất động sản - lĩnh vực tiêu thụ thép chủ chốt.
Ngoài ra, dữ liệu từ Mysteel ghi nhận sản lượng thép nóng trung bình mỗi ngày trong tuần cuối tháng 7 giảm 0,6% xuống 2,41 triệu tấn - mức thấp nhất 3 tuần, phản ánh áp lực cung - cầu vẫn hiện hữu.
Nông sản: Tiếp tục giảm
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) ghi nhận giá lúa mì, ngô và đậu tương giảm mạnh do thời tiết thuận lợi và áp lực từ nguồn cung lớn.
Cụ thể, giá lúa mì kỳ hạn tiếp tục giảm sang tuần thứ hai, giao dịch dưới mốc 5,1 USD/giạ, trong bối cảnh thời tiết tại các khu vực sản xuất chính ở Mỹ có nhiều thuận lợi. Lượng mưa tại khu vực Tây Bắc Đồng bằng giúp cải thiện độ ẩm đất, hỗ trợ cây trồng phát triển dù ảnh hưởng đến tiến độ thu hoạch tại một số nơi.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho biết, tiến độ thu hoạch lúa mì vụ Xuân mới đạt 1%, thấp hơn mức trung bình 5 năm (3%). Ngoài ra, tỷ lệ lúa mì được đánh giá tốt và xuất sắc giảm xuống còn 49%, so với mức 52% tuần trước nữa và thấp hơn đáng kể so với mức 74% cùng kỳ năm ngoái.
Tại khu vực Biển Đen, mưa có thể cải thiện tình hình mùa vụ ở Đông và Trung Ukraine, trong khi khô hạn tiếp tục kéo dài tại miền Nam và Bắc Kavkaz. Úc và Canada cũng ghi nhận mưa, làm tăng kỳ vọng về năng suất.
Giá ngô tháng 12/2025 (mã CZ25) giảm 3 cent về 4,1075 USD/giạ và giảm gần 2% trong tuần. Áp lực giảm đến từ dự báo sản lượng lớn tại Mỹ cùng thời tiết lý tưởng cho sinh trưởng cây trồng.
Theo USDA, khu vực Trung Tây đang có nền nhiệt độ mát và độ ẩm đất tích lũy tốt, tạo điều kiện tối ưu cho cây ngô. Về xuất khẩu, Mỹ vừa bán 352.160 tấn ngô cho khách hàng chưa xác định, cho thấy nhu cầu đang phục hồi vì giá thấp. Tuy nhiên, tâm lý thị trường vẫn chịu sức ép bởi khả năng nguồn cung dồi dào, đặc biệt khi báo cáo sản lượng và năng suất mùa vụ sẽ được công bố vào ngày 12/8 tới.
Đậu tương cũng giảm tuần thứ hai liên tiếp, với hợp đồng đậu tương tháng 11 (SX25) giữ ở mức 9,8925 USD/giạ, nhưng giảm khoảng 3,1% so với tuần trước nữa. Thị trường bị chi phối bởi kỳ vọng nguồn cung lớn tại Mỹ trong khi nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc suy yếu.
Ngoài ra, đậu tương Mỹ đang phải cạnh tranh với nguồn cung giá rẻ từ Nam Mỹ. Thêm vào đó, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung khiến triển vọng xuất khẩu gặp khó. Trung Quốc dù đã mua 30.000 tấn bột đậu tương từ Argentina, nhưng chưa đủ lực để hỗ trợ giá.
Ở nhóm sản phẩm chế biến, giá bột đậu tương giao tháng 12 (SMZ25) tăng 4,5 USD lên 280,5 USD/tấn ngắn, hồi phục từ vùng đáy gần đây. Ngược lại, dầu đậu tương cùng kỳ hạn (BOZ25) giảm 0,84 cent về 53,9 cent/pound.
Nguyên liệu công nghiệp: Cao su châu Á giảm tuần thứ 6 liên tiếp; ca cao, đường và cà phê cũng đi xuống
Giá cà phê Arabica (KC1!) giảm 11,6 cent (-3,9%) về 2,842 USD/pound trong phiên 1/8, trong bối cảnh thị trường xuất hiện làn sóng bán tháo mạnh mẽ. Nguyên nhân chính đến từ thông tin Mỹ sẽ áp mức thuế 50% đối với hàng nhập khẩu từ Brazil - quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới kể từ ngày 6/8 tới.
Dù ngành cà phê Brazil đang nỗ lực vận động miễn trừ, nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Giới phân tích nhận định, tình hình hiện tại có thể làm thay đổi dòng chảy thương mại và mở ra cơ hội cho các thị trường thay thế như Trung Quốc.
Tương tự, cà phê Robusta (RC2!) giảm 2,2% về 3.259 USD/tấn. Tại Indonesia, xuất khẩu Robusta Sumatra trong tháng 6 đạt 53.870,2 tấn - tăng mạnh 390% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá ca cao trên 2 sàn London và New York đều sụt giảm trong phiên 1/8 sau khi tăng mạnh phiên liền trước. Cụ thể, hợp đồng ca cao London (C2!) giảm 133 bảng (-2,4%) về 5.384 bảng/tấn, trong khi hợp đồng ca cao New York (CC1!) giảm 3,2% về 8.232 USD/tấn.
Áp lực bán xuất hiện sau khi Mỹ công bố kế hoạch áp thuế mới với nhiều quốc gia, làm dấy lên lo ngại giá hàng hóa nhiệt đới như ca cao sẽ tăng cao, ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng. Tuy nhiên, Malaysia cho biết có khả năng Mỹ sẽ không áp thuế với ca cao, cao su và dầu cọ nếu đạt được một số thỏa thuận nhất định.
Trong khi đó, Commerzbank cảnh báo mức thuế 15% có thể được áp lên ca cao nhập khẩu từ Bờ Biển Ngà và Ghana - 2 quốc gia cung cấp khoảng 60% sản lượng ca cao toàn cầu nếu đàm phán thất bại.
Giá đường thô (SB1!) giảm 0,17 cent (-1%) về 16,18 cent/pound; đường trắng (SF1!) cũng giảm 0,6% về 465 USD/tấn.
Đà giảm chủ yếu xuất phát từ sản lượng đường gia tăng đáng kể tại vùng Trung - Nam Brazil. Theo dữ liệu, sản lượng khu vực này trong nửa đầu tháng 7 tăng tới 15,07% so với cùng kỳ năm ngoái - một dấu hiệu cho thấy nguồn cung đang vượt kỳ vọng, từ đó gây áp lực giảm lên giá.
Tại Nhật Bản, giá cao su RSS3 tại sàn Toccom tăng nhẹ tại các kỳ hạn, với mức tăng dao động từ 0,70-5,4 JPY/kg. Cụ thể, kỳ hạn tháng 8/2025 tăng nhẹ 0,7 JPY lên 319,2 JPY/kg; kỳ hạn tháng 9/2025 tăng 1,5 JPY lên 319,3 JPY/kg; kỳ hạn tháng 10/2025 tăng 2,8 JPY lên 317,3 JPY/kg… Trong khi đó, giá cao su trên sàn OSE giảm 0,7 JPY (-0,2%) về 316,2 JPY/kg.
Tại Trung Quốc, giá cao su kỳ hạn tháng 8 trên sàn SHFE giảm 320 CNY (-2,17%) về 14.405 VNY/tấn.
Tại Thái Lan, giá cao su kỳ hạn tháng 8 đi ngang mức 72,27 baht/kg.
Giá cao su tại các sàn châu Á giảm mạnh trong tuần qua, đánh dấu tuần điều chỉnh đầu tiên sau chuỗi 6 tuần tăng liên tiếp. Nguyên nhân chủ yếu là nhu cầu toàn cầu suy yếu và kết quả cuộc họp Bộ Chính trị Trung Quốc không đưa ra gói kích thích kinh tế như kỳ vọng.
PMI tháng 7 cho thấy sản xuất tại châu Á tiếp tục sụt giảm, còn tại Thái Lan dự báo mưa giảm trong đầu tháng 8 có thể ảnh hưởng đến sản lượng.
Tỷ giá JPY/USD giảm mạnh xuống còn 150,73 JPY/USD, khiến cao su hấp dẫn hơn với nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, ngành lốp xe Ấn Độ tiếp tục tăng trưởng mạnh bất chấp bất ổn toàn cầu, với kim ngạch xuất khẩu tăng 9% trong năm tài chính vừa qua. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm 17%, ngành đang theo sát rủi ro thuế mới từ Mỹ và đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường để duy trì đà tăng trưởng dài hạn.
(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập)
(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).