Năng lượng: Giá dầu giảm 2%
Giá dầu giảm hơn 2% vào thứ Sáu (1/12) trong bối cảnh thị trường chờ đợi sự hiệu quả về mức độ cắt giảm nguồn cung của OPEC + và lo ngại về hoạt động sản xuất toàn cầu đình trệ cũng đè nặng lên thị trường.
Cụ thể, dầu thô Brent giao tháng 2/2024 giảm 1,98 USD (-2,45%) xuống 78,88 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 1,89 USD (-2,49%) về 74,07 USD/thùng.
Tính cả tuần, giá dầu Brent giảm khoảng 2,1% và dầu WTI giảm hơn 1,9%.
Các nhà sản xuất OPEC+ hôm thứ Năm đã đồng ý cắt giảm tự nguyện khoảng 2,2 triệu thùng dầu mỗi ngày (bpd) trong trong quý I/2024.
OPEC+, nơi cung cấp hơn 40% sản lượng dầu của thế giới, đang giảm sản lượng sau khi giá giảm từ khoảng 98 USD/thùng vào cuối tháng 9/2023 do lo ngại về tác động của tăng trưởng kinh tế đình trệ, tác động đến với nhu cầu nhiên liệu.
Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes BKR.O cho biết, số giàn khoan dầu của Mỹ đã tăng 5 giàn lên 505 giàn trong tuần qua, cao nhất kể từ tháng 9/2023.
Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Hoa Kỳ (CFTC) cho biết hôm 1/12/2023 rằng, các nhà quản lý tiền tệ đã cắt giảm vị thế mua ròng hợp đồng tương lai và quyền chọn dầu thô Mỹ trong tuần tính đến ngày 28/11/2023 từ 7.663 hợp đồng xuống còn 62.070 hợp đồng.
Kim loại: Vàng tăng cao nhất mọi thời đại, đồng cũng lên cao nhất gần 4 tháng, quặng sắt giảm
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại sau khi nhận xét từ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell làm tăng niềm tin của các nhà giao dịch rằng, Ngân hàng Trung ương Mỹ đã hoàn thành việc thắt chặt chính sách tiền tệ và có thể cắt giảm lãi suất bắt đầu từ tháng 3/2024.
Theo đó, giá vàng giao ngay tăng 1,6% lên 2.069,1 USD/ounce và tăng 3,4% trong tuần qua. Trước đó, giá đã tăng lên 2.075,09 USD/ounce - vượt qua mức cao nhất mọi thời đại được thiết lập vào năm 2020 là 2.072,49 USD/ounce. Giá vàng kỳ hạn cũng tăng 1,6% lên mức cao kỷ lục 2.089,7 USD/ounce.
Các thị trường đã đặt cược vào cắt giảm lãi suất vào tháng 3/2024 và lãi suất dưới 4% vào cuối năm tới.
Tăng sức hấp dẫn của vàng thỏi, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm trượt xuống mức thấp nhất trong 12 tuần và đồng đô-la Mỹ giảm 0,3%.
Một số kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,9% lên mức cao nhất trong hơn 6 tháng là 25,47 USD/ounce, thiết lập mức tăng hàng tuần thứ ba liên tiếp; palladium tăng 0,6% lên 932,44 USD/ounce; ngược lại, platinum giảm 0,3% xuống 1.004,92 USD/ounce.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng tăng tuần thứ ba liên tiếp cũng là mức cao nhất gần 4 tháng, do dữ liệu tốt hơn mong đợi từ người tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc, nguồn cung thắt chặt hơn, tồn kho giảm và USD yếu hơn.
Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 2,1% lên 8.638 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 4/8/2023.
Hỗ trợ cho giá đồng và các kim loại định giá bằng USD khác là “đồng bạc xanh” đã giảm trong ngày 1/12/2023 khi Chủ tịch Fed Jerome Powell phát biểu thận trọng về các động thái lãi suất tiếp theo, cho thấy Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ có thể đã hoàn thành chu kỳ thắt chặt của mình.
“Hướng tới năm 2024, giá đồng sẽ được hỗ trợ trong bối cảnh USD yếu hơn nhờ Fed nới lỏng chính sách tiền tệ”, Ewa Manthey - chiến lược gia hàng hóa tại ING cho biết.
Tồn kho đồng trong các kho được theo dõi bởi Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 27% trong tuần qua.
Một số kim loại màu khác trên sàn LME, giá nhôm tăng 0,7% lên 2.207,5 USD/tấn; thiếc tăng 2,6% lên 23.850 USD/tấn; niken tăng 2,4% lên 17.050 USD/tấn; kẽm tăng 2,1% lên 2.528 USD/tấn; chì tăng 0,2% lên 2.128 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn Đại Liên tăng do dữ liệu nhà máy lạc quan, song tính chung cả tuần vẫn giảm, lần giảm đầu tiên trong 7 tuần qua khi Bắc Kinh tiếp tục can thiệp vào thị trường để điều tiết giá.
Cụ thể, quặng sắt giao tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc tăng 2% lên 975,5 CNY (136,55 USD)/tấn khi đóng cửa phiên 1/12, nhưng cả tuần giảm 0,12% - lần đầu tiên sau 7 tuần tăng liên tục
Trên Sàn giao dịch Singapore, quặng sắt cùng kỳ hạn tăng 0,9% lên 129,58 USD/tấn trong phiên 1/12 và cả tuần cũng giảm 2,1% - lần đầu tiên sau 5 tuần tăng liên tiếp.
Hoạt động nhà máy của Trung Quốc trong tháng 11/2023 được thúc đẩy bởi các đơn đặt hàng tăng. Tuy nhiên, nhu cầu bên ngoài chậm chạp tiếp tục đè nặng lên các nhà sản xuất.
Giá nhà mới của Trung Quốc giảm tháng thứ ba liên tiếp trong tháng qua, khi lĩnh vực bất động sản bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng phải vật lộn để ổn định, bất chấp một loạt các biện pháp hỗ trợ của chính phủ nước này.
Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, giá thép cây, thép cuộn cán nóng và thanh thép đều tăng 1%, ngược lại thép không gỉ giảm 2%. Giá than luyện cốc và than cốc Đại Liên lần lượt tăng 2,7% và 1,5%.
Nông sản: Lúa mì và ngô tăng giá, đi ngược đậu tương
Giá đậu tương kỳ hạn tại Chicago tiếp tục giảm khi dự báo thời tiết có mưa ở miền Bắc Brazil - nơi đang bị hạn hán nặng. Trong khi đó, ngô và lúa mì chốt phiên 1/12 đều cao hơn khi các nhà giao dịch tiếp tục mở các vị thế bán ở cả hai thị trường.
Cụ thể, giá đậu tương kỳ hạn giảm 17-3/4 cent về mức 13,25 USD/bushel trong phiên 1/12 và kết thúc tuần qua giảm 0,4%. Ngược lại, lúa mì kết phiên tăng 4-3/4 cent lên 6,02-3/4 USD/bushel và cả tuần tăng 4,4%; ngô tăng 2 cent lên 4,84-3/4 USD/bushel và tăng 0,4% cả tuần.
Dự báo mưa rào và nắng nóng giảm bớt ở miền Bắc Brazil có thể tác động tích cực lên vụ mùa tại quốc gia xuất khẩu đậu tương lớn nhất thế giới trong tuần này. Công ty Tư vấn Patria Agronegocios cho biết, Brazil sẽ sản xuất 150,67 triệu tấn đậu nành trong mùa này, thấp hơn mức 154,1 triệu tấn của mùa trước do hạn hán.
Nguyên liệu công nghiệp: Đồng loạt giảm giá
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 3,6% xuống 25,09 cent/lb sau khi thiết lập mức thấp nhất trong 3 tháng là 24,95 cent/lbvà tính chung cả tuần giảm 7%. Đường trắng cùng kỳ hạn giảm 2,8% xuống 696,80 USD/tấn.
Nhập khẩu đường vào Liên minh Châu Âu (EU) đã tăng 10 lần trong niên vụ trước và kéo dài đà tăng vào đầu niên vụ 2023/24 hiện tại gây bất lợi cho Brazil, quốc gia đang trên đà mất vị trí dẫn đầu trong khối.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn giao dịch ICE chốt phiên 1/12 giảm 0,35 cent (-0,2%) xuống 1,8435 USD/lb, sau khi trước đó chạm mức cao nhất 6 tháng là 1,8825 USD/lb do tồn kho giảm xuống mức thấp nhất trong 24 năm. Tuy nhiên, cả tuần, hợp đồng này vẫn tăng 9,6%.
Dữ liệu hôm thứ Năm (31/11/2023) cho thấy tồn kho arabica trên sàn ICE giảm xuống còn 224.066 bao, thấp nhất kể từ tháng 2/1999. Các đại lý cho biết, một đợt lạnh dự kiến sẽ mang lại nhiều mưa cần thiết cho các khu vực sản xuất cà phê của Brazil, cải thiện triển vọng cho một vụ mùa bội thu vào mùa tới.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2024 giảm 39 USD (-1,5%) về 2.572 USD/tấn. Các đại lý cho biết, khí hậu ở nhà sản xuất robusta hàng đầu Việt Nam đã thuận lợi cho thu hoạch nhờ nhiệt độ mát mẻ hơn và không có mưa, có nghĩa là cà phê đang bắt đầu được đưa vào thị trường. Tuy nhiên, tốc độ hiện tại có thể không đủ để đáp ứng hoạt động kinh doanh mới và các đơn đặt hàng bị trì hoãn từ vụ trước.
Ca cao kỳ hạn tại London giảm 60 pound (-1,7%) xuống 3.498 pound/tấn sau khi thiết lập mức cao kỷ lục mới vào ngày 31/11/2023. Giá ca cao kỳ hạn tháng 3/2024 tại New York giảm 76 USD (-1,8%) xuống 4.201 USD/tấn.
Tổ chức Ca cao Quốc tế (ICCO) hôm 1/12 cắt giảm ước tính thâm hụt ca cao toàn cầu còn 99.000 tấn trong niên vụ 2022-2023 từ mức 116.000 tấn trước đó. Giá ca cao đã tăng khoảng 90% từ đầu năm 2023 tới nay do thời tiết bất lợi ở Tây Phi sẽ dẫn đến thâm hụt lần thứ ba liên tiếp trong niên vụ này.
Giá cao su giao tháng 5/2024 tại Nhật Bản giảm 6,3 JPY (-2,4%) xuống 256,7 JPY (1,73 USD)/kg và cả tuần giảm 2,3% - tuần giảm thứ hai liên tiếp do bị đè nặng bởi JPY mạnh hơn và dữ liệu kinh tế kém ở Nhật Bản. Giá cao su giao tháng 1/2024 tại Thượng Hải giảm 245 CNY (-1,8%) xuống 13.390 CNY (1.874,25 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn giao tháng 1/2024 tại Singapore giảm 1% xuống mức 144,2 US cent/kg.
Hoạt động nhà máy của Nhật Bản với tốc độ nhanh nhất trong 9 tháng vào tháng 11/2023 do nhu cầu trong nước và quốc tế chậm chạp, một cuộc khảo sát khu vực tư nhân cho thấy hôm thứ Sáu (1/12).
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |