Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 20-27/9: Giá dầu, vàng và cà phê cùng bật mạnh

(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch cuối cùng tháng 9/2025 (từ 20-27/9), thị trường hàng hóa thế giới ghi nhận giá vàng, dầu, cà phê cùng bật mạnh, riêng vàng lại chạm kỷ lục mới 3.790,82 USD/ounce vào ngày 23/9, trong khi nhiều mặt hàng khác chìm trong sắc đỏ như sắt thép, nông sản, ca cao, cao su…

Năng lượng: Dầu tăng mạnh nhất 3 tháng, khí LNG tiếp tục đi xuống

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu leo dốc do căng thẳng Nga - Ukraine leo thang cùng sức ép từ Mỹ, NATO làm gia tăng lo ngại thiếu hụt nguồn cung.

Cụ thể, giá dầu thế giới khép lại tuần giao dịch vừa qua với mức tăng mạnh nhất hơn 3 tháng: Dầu WTI tăng 0,14 USD (+1,14%) lên 65,72 USD/thùng; dầu Brent tăng 0,71 USD (+1,02%) lên 70,13 USD/thùng.

Tính chung trong tháng 9/2025, dầu WTI tăng 3,16% và dầu Brent tăng 4,3% so với tháng trước đó, trong khi mức giảm so với cùng kỳ năm trước chỉ còn khoảng 2-3,5%.

Nguyên nhân tăng chủ yếu đến từ các đợt tấn công UAV của Ukraine vào hạ tầng năng lượng Nga, buộc Moscow hạn chế xuất khẩu dầu diesel và tiếp tục cấm xuất khẩu xăng, gây khan hiếm tại nhiều thị trường. Đồng thời, Mỹ và NATO gia tăng sức ép khi kêu gọi đồng minh cắt giảm mua dầu từ Nga, khiến nguy cơ thiếu hụt nguồn cung ngày càng lớn.

Ở chiều nhu cầu, kinh tế Mỹ tăng trưởng GDP quý II đạt 3,8% cùng với động thái hạ lãi suất của Fed được kỳ vọng hỗ trợ nhu cầu tiêu thụ năng lượng. Tuy nhiên, nếu nguồn dầu Nga sang Trung Quốc và Ấn Độ bị gián đoạn, 2 quốc gia này sẽ phải tìm nguồn thay thế, làm thị trường thêm biến động.

Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng cảnh báo nguy cơ dư cung vẫn hiện hữu khi OPEC+ gia tăng xuất khẩu trong bối cảnh nhu cầu năng lượng toàn cầu phục hồi chậm.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tương lai tại Mỹ giảm khoảng 2% do dự báo thời tiết ôn hòa, điều này sẽ hạn chế nhu cầu sưởi ấm và làm mát, và lượng khí đốt dự trữ dồi dào.

Cụ thể, hợp đồng LNG giao tháng 10 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 6,9 cent (-2,4%) xuống 2,835 USD/mmBtu trong phiên 26/9. Vào thứ Năm (25/9), hợp đồng này đóng cửa ở mức cao nhất kể từ ngày 18/9/2025. Tính cả tuần, hợp đồng đã giảm khoảng 2% và giảm khoảng 8% trong tháng 9.

Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống còn 107,4 tỷ feet khối mỗi ngày trong tháng 9, giảm so với mức cao kỷ lục hàng tháng là 108,3 bcfd vào tháng 8.

LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 105,7 bcfd trong tuần này xuống 102,9 bcfd vào tuần tới và 100,3 bcfd trong 2 tuần kế tiếp.

Kim loại: Giá vàng bật mạnh, đồng cũng đi lên, quặng sắt và thép đều giảm

Ở nhóm kim loại quý, kết thúc phiên 27/9,giá vàng thế giới giao ngay ở mức 3.760 USD/ounce - tăng mạnh 75 USD (+1,9%) so với phiên cuối tuần trước nữa. Trong tuần, giá vàng từng lập kỷ lục 3.790,82 USD/ounce hôm thứ Ba (23/9). Giá vàng tương lai tháng 12/2025 đạt 3.789 USD/ounce, tăng 0,2%.

Tuần qua, bất chấp những thông tin không có lợi như kinh tế Mỹ tăng mạnh trong quý II, với mức tăng 3,8% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cũng như chỉ số chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) - thước đo lạm phát ưa thích của Fed, cơ bản đạt được như dự báo, dự kiến tăng 0,3% trong tháng 8/2025 so với tháng trước đó và tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước (theo khảo sát của Reuters), giá vàng vẫn bật mạnh.

Số liệu tăng trưởng GDP Mỹ cao hơn dự báo đã làm giảm kỳ vọng về các đợt cắt giảm lãi suất tiếp theo của Fed. Theo công cụ CME FedWatch, giới đầu tư hiện nhận thấy xác suất cắt giảm lãi suất 87% vào tháng 10 và 62% vào tháng 12, thấp hơn mức 91% và 76% trước khi có dữ liệu GDP.

Nguyên nhân chính được nhiều nhà đầu tư cũng như chuyên gia cho rằng tác động lên thị trường, đó là căng thẳng địa chính trị ở Trung Đông leo thang, làm giới đầu tư lo ngại đẩy mạnh mua vàng nhằm bảo toàn vốn trong rủi ro, từ đó khiến giá tăng mạnh.

Vàng vốn hưởng lợi trong môi trường lãi suất thấp và khi bất ổn kinh tế, địa chính trị gia tăng. Về thương mại, Tổng thống Mỹ Donald Trump thông báo áp thuế mới với thuốc, xe tải và đồ nội thất nhập khẩu từ ngày 1/10/2025.

Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,5% về 45,01 USD/ounce; bạch kim tăng 0,6% lên 1.539,44 USD/ounce - gần mức cao nhất 12 năm; palladium đi ngang ở mức 1.250,4 USD/ounce. Cả 3 kim loại quý này đều tăng trong tuần.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) duy trì xu hướng tăng, được hỗ trợ bởi lo ngại gián đoạn nguồn cung sau tuyên bố bất khả kháng của Freeport. Tuy nhiên, đà tăng bị hạn chế do lực cầu yếu hơn trong bối cảnh giá cao.

Cụ thể, hợp đồng đồng giao dịch nhiều nhất trên sàn SHFE tăng 0,38% lên 82.470 CNY (11.558,68 USD/tấn) trong phiên 26/9 và cả tuần tăng 3,39%.

Trên Sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng chuẩn kỳ hạn 3 tháng giảm 0,35% về 10.223,5 USD/tấn tại phiên 26/9, nhưng tăng 2,33% trong tuần.

Đồng USD mạnh lên đã gây áp lực lên giá đồng LME. “Đồng bạc xanh” giữ mức tăng mạnh trong phiên 26/9 sau khi dữ liệu kinh tế Mỹ tốt hơn dự báo, làm giảm kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ tiếp tục nới lỏng chính sách trong năm nay.

Giá đồng cao xuất hiện trong bối cảnh nhu cầu dự trữ hàng hóa gia tăng trước kỳ nghỉ lễ Quốc khánh Trung Quốc (1-8/10), dự kiến sẽ ảnh hưởng đến sức mua. Các nhà phân tích tại Công ty Môi giới Haitong Futures (Trung Quốc) nhận định: “Giá đồng có thể tiếp tục tăng, phụ thuộc vào việc các nhà máy hạ nguồn có chấp nhận mức giá cao hay không”.

Với các kim loại khác trên sàn LME: Kẽm giảm 0,85%; chì (CNPB3) giảm 0,62%; niken giảm 0,45%; nhôm giảm 0,38%; thiếc giảm 0,16%.

Trên sàn SHFE: Niken giảm 1,05%; chì đi ngang; thiếc tăng 0,16%; còn kẽm và nhôm gần như không thay đổi.

Ở nhóm kim loại đen, trong tuần qua, giá thép quốc tế biến động mạnh với xu hướng giảm chiếm ưu thế. Sau nhịp tăng đầu tuần nhờ nhu cầu ngắn hạn, thị trường nhanh chóng đảo chiều. Các hợp đồng tương lai trên sàn Thượng Hải rơi mạnh từ giữa tuần và chốt phiên 27/9 ở mức thấp nhất nhiều ngày.

Quặng sắt cũng đi theo kịch bản tương tự. Dù đầu tuần tăng nhẹ do nhu cầu luyện thép, nhưng giá nhanh chóng chịu sức ép bán tháo và chính sách kiểm soát nhập khẩu thép của châu Âu, khiến hợp đồng tại sàn Đại Liên (DCE) giảm trong tuần.

Cụ thể, trên sàn SHFE, hợp đồng thép cây giao tháng 5/2026 giảm 40 CNY về 3.157 CNY/tấn. Các sản phẩm thép khác cũng đi xuống: Thép thanh giảm 1,58%; thép cuộn cán nóng giảm 1,22%; thép dây giảm 1,02% và thép không gỉ giảm 0,58%.

Trên sàn DCE, hợp đồng quặng sắt tháng 1 giảm 1,74% về 790 CNY (110,74 USD/tấn) và giảm 1,12% trong tuần. Tại Singapore, hợp đồng quặng sắt tháng 9/2025 giảm 0,33% về 105,25 USD/tấn và cả tuần giảm 0,43%.

Áp lực giảm giá đến từ việc Ủy ban châu Âu chuẩn bị áp thuế 25-50% với thép và các sản phẩm liên quan từ Trung Quốc, nhằm bảo vệ ngành sản xuất nội khối trước tình trạng dư cung toàn cầu. Ngoài ra, trên sàn DCE, giá các nguyên liệu đầu vào như than cốc và than luyện cốc cũng giảm lần lượt 2,79% và 2,64%.

Giới phân tích cho rằng triển vọng ngắn hạn của thép còn nhiều rủi ro. Chính sách hạn chế nhập khẩu của EU và nhu cầu hạ nguồn suy yếu tiếp tục gây sức ép. Điểm tựa duy nhất có thể đến từ Trung Quốc nếu nước này tung thêm gói kích thích kinh tế hoặc mở rộng đầu tư hạ tầng.

Trong kịch bản cơ sở, giá thép quốc tế nhiều khả năng tiếp tục giằng co hoặc giảm nhẹ trong tuần này, trừ khi xuất hiện lực đẩy mạnh từ chính sách hoặc nhu cầu đột biến.

Nông sản: Tiếp tục giảm giá

Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua 26/9, Sàn giao dịch Chicago (CBOT) ghi nhận giá lúa mì và ngô giảm, trong khi đậu tương nhích nhẹ. Thị trường đang chờ báo cáo dự trữ ngũ cốc từ Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA).

Cụ thể, hợp đồng lúa mì CBOT giảm khi giới đầu tư điều chỉnh vị thế trước thời điểm USDA công bố báo cáo dự trữ ngũ cốc vào đầu tháng 10. Dự báo cho thấy, lượng tồn kho lúa mì Mỹ đạt 2,043 tỷ giạ, cao hơn mức 1,992 tỷ giạ cùng kỳ năm trước. Sản lượng năm nay được ước tính gần sát với con số 1,927 tỷ giạ USDA công bố trước đó.

Theo đó, giá lúa mì đỏ mềm vụ Đông tháng 12 (WZ25) giảm 7,25 cent xuống 5,1975 USD/giạ và giảm khoảng 0,5% trong tuần; lúa mì đỏ cứng vụ Đông tháng 12 của KC (KWZ25) giảm 6,75 cent về 5,0505 USD/giạ; lúa mì Xuân tháng 12 của Minneapolis (MWEZ25) giảm 6 cent về 5,67 USD/giạ.

Giá ngô CBOT tiếp tục đi xuống khi nông dân Mỹ đẩy nhanh tiến độ thu hoạch nhờ điều kiện thời tiết khô ráo. USDA dự báo sản lượng ngô năm nay có thể đạt mức kỷ lục, dù một số khu vực chịu ảnh hưởng hạn hán và dịch bệnh cây trồng.

Theo đó, giá ngô tháng 12 (CZ25) giảm 3,75 cent về 4,22 USD/giạ và giảm 0,5% trong tuần. Thị trường đang theo dõi sát báo cáo tiến độ thu hoạch cùng số liệu dự trữ ngũ cốc sẽ được USDA công bố trong tuần tới.

Đậu tương CBOT gần như đi ngang trong phiên 16/9, sau khi chạm đáy 6 tuần hồi đầu tuần do Trung Quốc gia tăng mua hàng từ Argentina thay vì Mỹ. Buenos Aires vừa tạm dừng thuế xuất khẩu, thúc đẩy khoảng 40 lô hàng được đăng ký cho giai đoạn tháng 11-12/2025, chủ yếu xuất sang Trung Quốc.

Theo đó, giá đậu tương tháng 11 (SX25) tăng 1,05 cent lên 10,1375 USD/giạ, nhưng cả tuần vẫn giảm 1,1%; khô đậu tương tháng 12 (SMZ25) tăng 1,4 USD lên 274,60 USD/tấn ngắn; trong khi dầu đậu tương tháng 12 (BOZ25) giảm 0,08 cent về 50,19 cent/pound. Giới đầu tư tiếp tục chờ số liệu tồn kho ngũ cốc từ USDA trong tuần tới để định hướng giao dịch.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá cà phê tăng mạnh trở lại, đường và dầu cọ cũng đi lên, ca cao và cao su cùng giảm

Kết thúc tuần qua, giá cà phê Robusta LRCc2 trên sàn London tăng 66 USD lên 4.201 USD/tấn; cà phê Arabica KCc2 trên sàn New York tăng 13,6 Us cent/lb lên 378,85 US cent/lb.

Giá cà phê Arabica và Robusta trên thị trường thế giới tăng mạnh trở lại do nguồn cung toàn cầu thiếu hụt, trong khi cà phê Robusta Việt Nam được đánh giá có chất lượng vượt trội, tạo lợi thế xuất khẩu.

Thêm tín hiệu tích cực, Liên minh Châu Âu (EU) vừa quyết định lùi thời hạn áp dụng Quy định chống phá rừng (EUDR) sang ngày 30/12/2026, thay vì 2025 như kế hoạch ban đầu.

Brazil là nhà sản xuất cà phê lớn nhất thế giới, trong khi Colombia đứng thứ ba. Tuy nhiên, hạt cà phê Colombia thường được bán với giá cao hơn so với hợp đồng Arabica giao dịch trên sàn New York, do được đánh giá có chất lượng vượt trội, trong khi cà phê Brazil thường được giao dịch với giá thấp hơn.

Ngành cà phê Colombia đang gặp khó khăn khi hạt cà phê Brazil tràn vào nước này để né tránh mức thuế cao của Mỹ, nên người dân trồng cà phê Colombia kêu gọi siết chặt kiểm soát nhập khẩu.

Giới phân tích nhận định, triển vọng thị trường cà phê toàn cầu trong ngắn hạn sẽ tiếp tục khó đoán, phụ thuộc vào thời tiết tại Việt Nam và Brazil, diễn biến thương mại Mỹ - Brazil, cũng như lượng tồn kho thấp kỷ lục trên các sàn quốc tế.

Trên thị trường ca cao, giá tại London giảm nhẹ, hợp đồng ca cao (C2!) giảm 43 pound (-0,9%) về 4.888 GBP/tấn, nhưng vẫn giữ trên ngưỡng thấp nhất 2 tháng là 4.874 GBP/tấn. Thị trường tập trung vào thời điểm khởi động mùa vụ 2025-2026 vào ngày 1/10/2025, trong khi Bờ Biển Ngà dự kiến sớm công bố giá thu mua cho nông dân.

Ngoài ra, dữ liệu nghiền ca cao quý III/2025 từ châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á dự kiến công bố đầu tháng 10 cũng được giới giao dịch theo dõi sát, trong bối cảnh nhu cầu còn yếu. Tại New York, hợp đồng ca cao (CC2!) giảm 1,5% xuống 6.956 USD/tấn.

Thị trường đường ghi nhận xu hướng đi lên. Giá đường thô (SB1!) tăng 0,12 cent (+0,8%) lên 15,76 cent/pound; đường trắng (SF1!) cũng tăng 0,9% lên 462,9 USD/tấn.

Kết quả khảo sát từ S&P Global Commodity Insights cho thấy, sản lượng đường tại khu vực trung nam Brazil trong nửa đầu tháng 9/2025 ước tăng 15% so với cùng kỳ năm trước, đạt khoảng 3,6 triệu tấn.

Trên thị trường cao su, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua (27/9), tại Trung Quốc, giá cao su kỳ hạn tháng 10 trên sàn Thượng Hải giảm 150 CNY (-1,02%) xuống 14.530 CNY/tấn và giảm 1,5 trong tuần. Tại Thái Lan, giá cao su kỳ hạn tháng 10 giảm 0,09 baht (-0,1%) về 67,67 baht/kg, nhưng cả tuần vẫn tăng 0,1%. Tại thị trường Nhật Bản, giá cao su RSS3 trên sàn Tocom giảm 2,1 JPY (-0,7%) về 312 JPY/kg và cả tuần giảm 0,4%.

Thị trường cao su quốc tế khép lại tuần giao dịch cuối tháng 9 trong xu hướng giảm, chịu áp lực kép từ cung vượt cầu và nhu cầu tiêu thụ suy yếu. Tại Trung Quốc - quốc gia tiêu thụ lớn nhất thế giới, ngành ô tô và sản xuất lốp xe chưa cho thấy tín hiệu phục hồi mạnh, khiến sức mua trầm lắng.

Trên sàn Tocom, đồng JPY tăng giá so với USD càng làm giảm sức hấp dẫn của cao su, trong khi nguồn cung toàn cầu tiếp tục tăng khi Thái Lan, Việt Nam bước vào mùa khai thác chính. Bên cạnh đó, triển vọng tăng trưởng kinh tế chậm lại tại Mỹ và châu Âu khiến giới đầu tư hạn chế mua vào, gia tăng lo ngại dư cung.

Các chuyên gia nhận định, trong ngắn hạn, giá cao su thế giới khó tránh khỏi áp lực giảm. Tuy nhiên, nếu ngành ô tô Trung Quốc sớm lấy lại đà phục hồi và đồng USD suy yếu, thị trường có thể tìm thấy lực hỗ trợ trong những tuần tới.

Với dầu cọ, thị trường này được hỗ trợ vững chắc trước những lo ngại ngày càng lớn về nguồn cung trên toàn cầu. Kết thúc phiên 26/9, giá dầu cọ tháng 12 Malaysia tăng mạnh 1,3% lên 1.053 USD/tấn.

Dorab Mistry - Giám đốc Godrej International Ltd, chuyên gia giao dịch dày dạn kinh nghiệm về thị trường dầu cọ cho biết, sản lượng tại 2 quốc gia sản xuất chủ chốt là Indonesia và Malaysia đều ghi nhận tín hiệu bất lợi. Tại Indonesia, chính sách thu hồi các đồn điền tư nhân chưa hợp pháp đang khiến năng suất giảm sút. Trong khi đó, ở Malaysia, nhiều diện tích cọ già hóa nhưng chưa được tái canh, khiến sản lượng gần như không tăng trưởng hoặc thậm chí sụt giảm.

Cán cân cầu cũng không kém phần quan trọng. Ấn Độ - quốc gia nhập khẩu dầu cọ lớn nhất thế giới, dự kiến nâng sản lượng mua lên 9,3 triệu tấn trong niên vụ 2025-2026, cao hơn 12% so với hiện nay.

Đồng thời, Liên minh châu Âu (EU) quyết định trì hoãn thêm 1 năm việc triển khai luật chống phá rừng lần thứ hai, tạm lùi thời điểm thực thi lệnh cấm nhập khẩu các sản phẩm liên quan đến phá rừng, trong đó có dầu cọ. Động thái này được nhận định sẽ góp phần duy trì sức cầu ổn định với thị trường dầu cọ trong thời gian tới.

(Nguồn: Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Thời báo Tài chính Việt Nam, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục