Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 15-22/6: Biến động trái chiều

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 15-22/6, thị trường hàng hóa chứng kiến sự tăng giảm trái chiều giữa giá dầu và vàng, đồng thời nhóm mặt hàng kim loại quý, nông sản, nguyên liệu công nghiệp cũng có diễn biến tương tự.
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 15-22/6: Biến động trái chiều

Năng lượng: Giá dầu tăng 3%

Giá dầu thô giảm khoảng 1% vào thứ Sáu (21/6) do lo ngại rằng tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu có thể bị ảnh hưởng bởi USD mạnh và tin tức kinh tế tiêu cực từ một số nơi trên thế giới, bất chấp dấu hiệu cho thấy nhu cầu dầu của Mỹ được cải thiện và tồn kho nhiên liệu giảm đã giúp đẩy giá dầu thô lên mức cao nhất 7 tuần một ngày trước đó.

Kết thúc phiên này, giá dầu Brent kỳ hạn tương lai giảm 47 cent (-0,6%) xuống 85,24 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 56 cent (-0,7%) xuống 80,73 USD/thùng.

Tuy nhiên, tính chung cả tuần, cả 2 loại dầu thô đều tăng khoảng 3%, trong tuần trước nữa sau tăng khoảng 4%.

Đồng USD trong ngày 21/6 đã tăng lên mức cao nhất trong 7 tuần so với rổ các loại tiền tệ chủ chốt khác do Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tiếp cận vấn đề cắt giảm lãi suất một cách kiên nhẫn, trái ngược với lập trường ôn hòa hơn ở những nơi khác.

Fed đã tăng lãi suất mạnh mẽ trong năm 2022 và 2023 để kiềm chế lạm phát tăng nhanh. Lãi suất cao đã làm tăng chi phí đi vay dành cho người tiêu dùng và doanh nghiệp, từ đó làm chậm tăng trưởng kinh tế và giảm nhu cầu về dầu.

USD mạnh lên cũng có thể làm giảm nhu cầu dầu bằng cách làm cho các mặt hàng định giá bằng “đồng bạc xanh” như dầu trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Mỹ là nước tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới. Hoạt động kinh doanh ở nước này trong tháng 6/2024 đã tăng lên mức cao nhất 26 tháng trong bối cảnh thị trường việc làm phục hồi, nhưng áp lực giá giảm đáng kể, mang lại hy vọng rằng lạm phát chậm lại gần đây có thể sẽ được duy trì.

Tuy nhiên, doanh số bán nhà hiện có của Mỹ trong tháng 5/2024 giảm tháng thứ ba liên tiếp do giá cao kỷ lục và lãi suất thế chấp tăng trở lại.

Bất chấp giá dầu thô giảm, giá xăng kỳ hạn tương lai ở Mỹ đã tăng 4 phiên liên tiếp lên mức cao nhất 1 tháng do nhu cầu tăng trong mùa hè và tồn kho giảm.

Về tình hình cung - cầu ở các nơi khác, tại Ấn Độ, các nhà máy lọc dầu đã xử lý dầu thô nhiều hơn gần 1,3% trong tháng 5/2024 so với một năm trước đó, trong khi tỷ trọng nguồn cung của Nga trong nhập khẩu vào Ấn Độ (nước tiêu thụ dầu lớn thứ ba thế giới) tăng lên. Dấu hiệu nhu cầu tăng ở châu Á cũng thúc đẩy tâm lý các nhà giao dịch. Các nhà máy lọc dầu trên toàn khu vực đang khôi phục một số công suất nhàn rỗi sau khi bảo trì, các nhà phân tích tại ANZ Research cho biết.

Tuy nhiên, tại khu vực đồng euro, tăng trưởng kinh doanh trong tháng 6/2024 đã chậm lại khi nhu cầu dầu giảm lần đầu tiên kể từ tháng 2/2024.

Kim loại: Giá vàng giảm, palladium tăng cao nhất 1 tháng; đồng, quặng sắt, thép cũng giảm

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm hơn 1% trong phiên thứ Sáu (21/6) do USD mạnh lên và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng sau khi dữ liệu cho thấy hoạt động kinh doanh ở nước này vẫn mạnh mẽ.

Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 1,7% xuống 2.319,95 USD/ounce; vàng giao sau giảm 1,6% xuống 2.331,20 USD.

Hoạt động kinh doanh của Mỹ đã tăng lên mức cao nhất 26 tháng vào tháng 6/2024 trong bối cảnh việc làm phục hồi. Dữ liệu hôm thứ Năm cho thấy, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu của Mỹ đã giảm vừa phải vào tuần trước.

USD tăng tăng 0,2% lên mức cao nhất trong hơn 7 tuần, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng cao hơn sau dữ liệu của Mỹ.

Theo CME FedWatch Tool, các nhà giao dịch hiện dự kiến có 63% khả năng Fed cắt giảm lãi suất vào tháng 9/2024. Lãi suất hạ xuống sẽ làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi.

Trong khi đó, giá palladium giao ngay tăng 3,2% lên 953,17 USD/ounce sau khi tăng tới 11,2% lên 1.027,04 USD/ounce trong phiên - mức cao nhất trong 1 tháng. Bạch kim tăng 1,8% lên 995,78 USD/ounce, trong khi bạc giảm 3,7% xuống 29,57 USD/ounce, nhưng cả 2 kim loại này đều tăng so với một tuần trước đó.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm trong phiên cuối tuần 21/6 do lo ngại nguồn cung dư thừa và nhu cầu chậm chạp ở Trung Quốc - nước tiêu thụ lớn nhất thế giới.

Kết thúc phiên này, trên Sàn Giao dịch kim loại London (LME), giá đồng giảm 1,5% xuống 9.709 USD/tấn sau 3 ngày tăng trước đó. Giá đồng đã giảm 13% kể từ khi chạm mức cao kỷ lục trên 11.100 USD vào tháng trước. Giá đồng Comex kỳ hạn của Mỹ giảm 2,3% xuống 4,46 USD/lb.

Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đã giảm xuống mức thấp nhất trong 7 tháng so với đồng đô-la Mỹ, do dòng vốn đầu tư từ thị trường tài chính đại lục và suy đoán rằng ngân hàng trung ương đang cho phép đồng tiền suy yếu dần dần.

Dữ liệu cho thấy thị trường đồng tinh chế toàn cầu thặng dư 13.000 tấn trong tháng 4/2024 và dư thừa 299.000 tấn trong 4 tháng đầu năm.

Đối với các kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME giảm 0,2% xuống 2.516 USD/tấn; niken giảm 1% xuống 17.255 USD/tấn; kẽm giảm 0,5% xuống 2.860,50 USD/tấn; chì giảm 1% xuống 2.194 USD/tấn và thiếc giảm 0,9% xuống 32.785 USD/tấn.

Tính chung cả tuần, giá đồng và nhôm giảm, kẽm và thiếc tăng.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt giảm trong phiên cuối tuần qua (21/6), tính chung cả tuần cũng giảm tuần thứ 4 liên tiếp, trong bối cảnh thị trường nói về giới hạn sản lượng thép thô ở Trung Quốc.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 9/2024 trên Sàn Giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) Trung Quốc giảm 1,7% xuống 811,5 CNY (111,76 USD)/tấn, thấp nhất kể từ ngày 17/6. Trong tuần, giá giảm 1,8%.

Quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2024 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 1,59% xuống 105 USD/tấn và giảm 2,3% so với tuần trước.

Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE), giá thép cây giảm 1,19%; thép cuộn cán nóng giảm 0,77%; thanh thép giảm 1,51% và thép không gỉ giảm 0,75%.

Dữ liệu từ Công ty Tư vấn Mysteel cho thấy, sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày của các nhà sản xuất thép Trung Quốc được khảo sát đã tăng tuần thứ hai liên tiếp lên mức cao nhất kể từ tháng 11/2023, tăng 0,3% lên khoảng 2,4 triệu tấn trong tuần tính đến ngày 21/6.

Chu Xinli, nhà phân tích tại China Futures, cho biết: “Khả năng tăng nhu cầu quặng sắt còn hạn chế”, đồng thời trích dẫn rằng, một số tỉnh được cho là đã ban hành hướng dẫn về hạn chế thép.

Nông sản: Đồng loạt giảm giá, riêng lúa mì giảm 4 tuần liên tục

Giá đậu tương Mỹ bật tăng vào phiên 21/6 khi một số mô hình thời tiết cho thấy mưa lớn khiến một số khu vực sản xuất của Mỹ có nguy cơ bị ngập lụt. Trái lại, giá lúa mì giảm do thị trường phản ứng với vụ thu hoạch mùa Đông của Mỹ tiến triển nhanh bất thường, cùng với việc điều chỉnh dự báo về sản lượng của Nga và Argentina, cho thấy nguồn cung toàn cầu tiếp tục mạnh.

Giá giảm bất chấp dữ liệu xuất khẩu của USDA công bố hôm thứ Năm cho thấy, doanh số xuất khẩu lúa mì ròng của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 13/6 đạt 589.700 tấn, cao hơn ước tính thương mại là 200.000-500.000 tấn.

Kết thúc phiên này, trên sàn Chicago, giá đậu tương tháng 7/2024 tăng 5-1/4 cent lên 11,60-1/2 USD/bushel, sau khi đóng cửa ở mức thấp nhất 2 tháng vào thứ Năm. Tính chung cả tuần, giá đậu tương vẫn giảm 19-1/4 cent, sau khi đã tăng vào tuần trước nữa.

Giá ngô cùng kỳ hạn giảm 4-3/4 cent ở mức 4,35 USD/bushel, giảm 15 xu trong tuần qua.

Lúa mì Chicago kỳ hạn tương tự giảm 11-1/4 cent về 5,61-1/2 US/bushel và trong tuần giá giảm 51-1/2 US cent - tuần giảm thứ tư liên tiếp.

Nguyên liệu công nghiệp: Biến động trái chiều

Trong tuần qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 0,08 cent (+0,4%) lên 18,97 cent/lb, nhưng cả tuần giá giảm 2,4%. Các đại lý cho biết thị trường đường vẫn kẹt trong khoảng 18-20 US cent/lb.

Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2021 tăng 1% lên 558,2 USD/tấn.

Giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 72 USD (-1,7%) xuống 4.104 USD/tấn, mặc dù thị trường được hỗ trợ bởi nguồn cung khan hiếm. Tính chung cả tuần, giá Robusta tăng 2%. Cà phê arabica cùng kỳ hạn giảm 2,3% xuống 2,25 USD/lb.

Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2024 giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước, dữ liệu Hải quan cho biết. Những người trồng cà phê Brazil tiếp tục thu hoạch vụ mùa 2024-2025 với tốc độ nhanh do thời tiết khô hạn, tính đến thứ Ba tuần trước, 44% diện tích trồng đã được dọn sạch, Công ty Tư vấn Safras & Mercado cho biết hôm thứ Sáu.

Giá cacao kỳ hạn tại London đóng cửa giảm và giảm 9% trong tuần do không chắc chắn về mức độ thiếu hụt nguồn cung trong vụ tới. Cụ thể, giá cacao tháng 9/2024 giảm 46 pound (-0,6%) xuống 7.319 pound/tấn. Giá ca cao tại New York cùng kỳ hạn giảm 1,7% xuống 8.905 USD/tấn.

Các đại lý chờ đợi sự rõ ràng về triển vọng niên vụ 2024-2025, sau khi thâm hụt toàn cầu lớn trong niên vụ hiện tại dẫn đến nguồn cung ca cao thắt chặt đáng kể.

Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng do đồng yên yếu, nhưng tính chung cả tuần giảm. Cụ thể, cao su tháng 11/2024 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 0,2 JPY (+0,06%) lên 330,7 JPY (2,08 USD)/kg, nhưng cả tuần giảm hơn 2%.

Cao su tháng 9/2024 trên Sàn giao dịch Thượng Hải (SHFE) giảm 35 CNY (-0,23%) xuống 15.030 CNY (2.070,13 USD)/tấn.

Đồng yên Nhật giảm 0,08% xuống 159,05 JPY/USD - mức thấp nhất kể từ cuối tháng 4/2024. Giá nguyên liệu thô ở Thái Lan đã giảm khá đáng kể, nhanh chóng khiến “một số thương nhân điều chỉnh lại vị thế của họ” trên thị trường cao su, Farah Miller - Giám đốc điều hành của Helixtap Technologies, một công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su cho biết.

Giá tấm cao su hun khói tiêu chuẩn xuất khẩu của Thái Lan (RSS3) giảm 8,1% trong tuần qua, trong khi cao su khối giảm 3,7%.

Đồng tiền yếu đi làm cho tài sản bằng JPY trở nên hợp lý hơn đối với người mua ở nước ngoài. Lạm phát lõi của Nhật Bản tăng tốc trong tháng 5/2024 do thuế năng lượng.

JPMorgan Chase JPM.N cho biết, có những dấu hiệu cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đang cải thiện sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng nước này sau một thời gian trì trệ. Trung Quốc là nước tiêu dùng cao su hàng đầu thế giới.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

N.Tùng

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục