Năng lượng: Giá dầu giảm 2,5%, khí LNG tăng 2%
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới không thay đổi nhiều vào thứ Sáu (20/12) khi thị trường cân nhắc nhu cầu của Trung Quốc. Cụ thể, giá dầu thô Brent tăng 6 Uscent (+0,08%) lên 72,94 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 8 Uscent (+0,12%) lên 69,46 USD/thùng. Tuy nhiên, cả tuần, 2 loại dầu giảm khoảng 2,5%.
Đồng USD đã giảm từ mức cao nhất trong 2 năm, nhưng đang hướng đến tuần tăng thứ ba liên tiếp, sau khi dữ liệu cho thấy lạm phát của Mỹ đang hạ nhiệt sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất, nhưng giảm triển vọng cắt giảm lãi suất vào năm tới. USD yếu hơn khiến dầu rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác, trong khi việc cắt giảm lãi suất có thể thúc đẩy nhu cầu dầu.
Sinopec - nhà máy lọc dầu nhà nước Trung Quốc cho biết, trong triển vọng năng lượng hàng năm, lượng dầu thô nhập khẩu của nước này có thể đạt đỉnh sớm nhất vào năm 2025 và lượng tiêu thụ dầu sẽ đạt đỉnh vào năm 2027, khi nhu cầu về dầu diesel và xăng suy yếu.
Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ và các nhà sản xuất đồng minh (OPEC+) gần đây đã cắt giảm dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu năm 2024 trong tháng thứ năm liên tiếp.
Ngân hàng JPMorgan dự báo thị trường dầu sẽ chuyển từ trạng thái cân bằng vào năm 2024 sang thặng dư 1,2 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2025, khi ngân hàng này dự báo nguồn cung ngoài OPEC+ sẽ tăng 1,8 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2025 và sản lượng của OPEC vẫn ở mức hiện tại.
Các nhà quản lý tiền tệ đã tăng vị thế quyền chọn và hợp đồng tương lai dầu thô dài hạn của Mỹ trong tuần tính đến ngày 17/12/2024, Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Hoa Kỳ (CFTC) cho biết.
Theo đó, JP Morgan dự báo giá dầu Brent sẽ giảm xuống 73 USD/thùng vào năm 2025, vì nhận thấy thị trường dầu mỏ toàn cầu chuyển từ trạng thái cân bằng năm 2024 sang thặng dư lớn 1,2 triệu thùng/ngày (bpd) trong năm 2025.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ đi lên do lưu lượng khí đốt đến các nhà máy xuất khẩu LNG tăng và kỳ vọng các công ty tiện ích đã rút nhiều khí đốt ra khỏi kho hơn bình thường trong tuần thứ hai liên tiếp vào tuần trước nữa. Cụ thể, giá LNG giao tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 6,6 cent (+2%) lên 3,374 USD/mmBtu.
Tuy nhiên, các nhà phân tích dự báo sản lượng tăng và thời tiết ôn hòa cùng nhu cầu sưởi ấm thấp cho đến đầu năm 2025 sẽ giúp lượng khí đốt rút ra khỏi kho thấp hơn bình thường trong những tuần tới. Hiện tại, lượng khí đốt trong kho cao hơn khoảng 4% so với bình thường vào thời điểm này trong năm.
Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã tăng lên 103,1 tỷ feet khối mỗi ngày cho đến nay trong tháng 12, tăng từ 101,5 bcfd vào tháng 11. Con số này so với mức kỷ lục 105,3 bcfd vào tháng 12 năm 2023.
Lượng khí đốt vào 8 nhà máy xuất khẩu LNG lớn đang hoạt động tại Mỹ đã tăng lên mức trung bình 14,1 bcfd cho đến nay trong tháng 12, tăng so với mức 13,6 bcfd trong tháng 11. Con số này so với mức cao kỷ lục hàng tháng là 14,7 bcfd vào tháng 12/2023.
Hoa Kỳ đã trở thành nhà cung cấp LNG lớn nhất thế giới vào năm 2023, vượt qua Úc và Qatar, vì giá toàn cầu cao hơn nhiều thúc đẩy nhu cầu xuất khẩu nhiều hơn một phần do gián đoạn nguồn cung.
Kim loại: Giá vàng, quặng sắt và thép giảm, đồng tăng
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng vào thứ Sáu (20/12), được hỗ trợ bởi USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm sau khi dữ liệu kinh tế cho thấy lạm phát của Mỹ đang chậm lại. Cụ thể, giá vàng giao ngay tăng 1,2% lên 2.624,15 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2025 tăng 1,4% lên 2.645,10 USD/ounce. Dù vậy, triển vọng Fed chậm giảm lãi suất khiến giá vàng giảm khoảng 2% trong tuần qua.
Đồng USD giảm 0,6% so với mức cao nhất trong 2 năm, khiến vàng trở nên rẻ hơn đối với người mua ở nước ngoài, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm nhẹ so với mức cao nhất trong hơn 6 tháng.
Đối với bạc, mặt hàng này nối dài đà giảm sang phiên thứ ba liên tiếp trong tuần qua, với mức giảm hơn 4% xuống 29,41 USD/ounce. Đây cũng là lần đầu tiên giá bạc giảm xuống dưới mốc 30 USD/ounce kể từ giữa tháng 9/2024.
Giá kim loại quý tiếp tục chịu áp lực bởi sức ép từ USD mạnh lên và lo ngại lãi suất giảm chậm hơn.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng tăng nhẹ trong phiên 20/12 từ mức thấp nhất trong 5 tuần chạm tới trong phiên trước đó, khi USD giảm từ mức cao nhất trong 2 năm, cho dù lo ngại về triển vọng nhu cầu khiến kim loại này tiếp tục giảm tuần thứ hai liên tiếp.
Cụ thể, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,6% lên 8.935,50 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt giảm phiên thứ tư liên tiếp vào ngày 20/12 và giảm trong tuần do nhu cầu chậm lại theo mùa ở Trung Quốc cũng như lo ngại về triển vọng nhu cầu trong năm 2025.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc giảm 0,77% xuống 769 CNY (105,38 USD)/tấn và giảm 3,7% trong tuần.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 1,24% xuống 100,55 USD/tấn - mức thấp nhất kể từ ngày 25/11/2024, tiến gần đến mức tâm lý quan trọng là 100 USD/tấn và giảm 3,2% trong tuần.
Trên sàn SHFE, giá thép thanh giảm 0,53% xuống 3.214 CNY/tấn - mức thấp nhất trong 1 tháng qua, phản ánh mối lo ngại kéo dài về nhu cầu thép suy yếu trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc chững lại.
Dự kiến, sản lượng thép thô của Trung Quốc giảm 1,3% xuống mức 990 triệu tấn vào năm 2025. Đây là kết quả của các biện pháp chống bán phá giá và tăng thuế từ nhiều quốc gia, khiến các nhà máy sản xuất thép nội địa phải giảm sản lượng. Đồng thời, xuất khẩu thép thành phẩm của Trung Quốc dự kiến giảm 9% - tương đương 9,56 triệu tấn.
Mặc dù thị trường thép quốc tế đối mặt nhiều thách thức, nhưng giá thép trong nước vẫn ổn định nhờ nhu cầu xây dựng nội địa vững vàng và chính sách quản lý nhập khẩu hợp lý. Bên cạnh đó, các chuyên gia khuyến cáo nhà đầu tư nên theo dõi sát tình hình kinh tế toàn cầu để chuẩn bị những biến động tiềm tàng.
Nông sản: Giá ngô tiếp tục tăng, lúa mì và đậu tương vẫn đi lùi
Giá lúa mì tương lai trên Sàn Chicago (CBOT) đi ngang trong phiên nhưng vẫn thiết lập mức thấp trong ngày thứ hai liên tiếp do nguồn cung dư thừa. Các lô hàng từ khu vực Biển Đen vẫn được cung ứng đều đặn, trong khi các vụ thu hoạch lớn tại Argentina và Úc tiếp tục gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Nga đã đặt hạn ngạch xuất khẩu lúa mì cho nửa cuối niên vụ 2024-2025 ở mức 10,6 triệu tấn, giảm so với mức 11 triệu tấn được Liên minh Kinh tế Á - Âu công bố trước đó.
Cụ thể, giá lúa mì mùa Đông đỏ mềm tháng 3/2025 giữ nguyên ở mức 5,33 USD/giạ trong phiên 120/12 và giảm 3,4% trong tuần. Trong khi đó, lúa mì cứng đỏ KC tháng 3/2025 tăng nhẹ 1,05 cent lên 5,4475 USD/giạ; lúa mì Xuân tháng 3/2025 tại Minneapolis không đổi ở mức 5,8675 USD/giạ.
Ngược lại, giá ngô tăng nhờ hoạt động xuất khẩu khởi sắc và dự báo giảm lượng hàng tồn kho cuối vụ của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA). Trước đó, giá ngô giảm đã kích thích nhu cầu mua vào từ các khách hàng quốc tế, đặc biệt là Hàn Quốc. Trong tuần, các nhà xuất khẩu Mỹ đã ký hợp đồng bán 150.000 tấn ngô cho Colombia, dự kiến giao hàng trong mùa vụ 2024-2025. Tuy nhiên, hàng hóa nông sản tiếp tục chịu sức ép từ USD mạnh, khiến nông sản Mỹ kém cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế.
Theo đó, giá ngô giao tháng 3/2025 tăng 5,05 cent lên 4,4625 USD/giạ và tăng 0,96% trong tuần.
Tương tự, giá đậu tương tăng trong phiên 20/12 nhờ hoạt động mua vào kỹ thuật và chốt lời sau đợt giảm mạnh trước đó. Một ngày trước đó, giá đậu tương tương lai đã chạm đáy thấp nhất 4 năm ở mức 9,4525 USD/giạ do kỳ vọng về một vụ mùa kỷ lục tại Brazil. Trong tuần, công ty Sinograin của Trung Quốc đã mua gần 500.000 tấn đậu tương Mỹ, dự kiến giao vào tháng 3 và 4/2025, bất chấp nguồn cung từ Brazil có giá rẻ hơn.
Theo đó, giá đậu tương giao tháng 1/2025 tăng 11,05 cent lên 9,7405 USD/giạ, nhưng vẫn giảm 1,4% trong tuần. Ngoài ra, giá bột đậu nành tháng 1/2025 tăng 10,4 USD lên 294,5 USD/tấn ngắn, trong khi giá dầu đậu nành tháng 1/2025 giảm 0,53 cent xuống 39,48 cent/pound.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá ca cao tiếp tục đi lên, trong khi đường, cà phê, cao su và dầu cọ đồng loạt đi xuống
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô tăng 0,6% lên 19,51 cent/lb, sau 6 phiên giảm liên tiếp. Tuy nhiên, hợp đồng này vẫn giảm 5,8% trong tuần, do triển vọng tích cực về mùa vụ ở Bắc bán cầu và đồng real Brazil yếu đã thúc đẩy một lượng lớn giao dịch bán phòng ngừa rủi ro từ các nhà máy sản xuất.
Trong khi đó, giá đường trắng tháng 3/2025 tăng 0,2%, lên 510,4 USD/tấn trong phiên 20/12, nhưng cũng giảm 3,3% trong tuần.
Giá cà phê Arabica tương lai trên thị trường New York tăng 1,25 cent (+0,4%) lên 3,25 USD/pound. Ngược lại, cà phê Robusta giảm 0,9% về 5.002 USD/tấn.
Thị trường cà phê vẫn tập trung vào triển vọng sản lượng vụ mùa tiếp theo ở Brazil, sau khi quốc gia này phải đối mặt với đợt hạn hán kéo dài trong năm nay. Theo dự báo sơ bộ của Công ty Tư vấn nông nghiệp Safras & Mercado, sản lượng cà phê của Brazil trong niên vụ 2025-2026 ước đạt 62,45 triệu bao, giảm 5% so với mùa trước. Cà phê Arabica dự báo giảm 15%, xuống còn 38,35 triệu bao, trong khi sản lượng cà phê Robusta đạt khoảng 24,1 triệu bao. Tuy nhiên, những dự báo về sản lượng cà phê Arabica năm sau đã có sự thay đổi lớn. Trước đó, Volcafe dự báo chỉ có khoảng 34,4 triệu bao, trong khi TRS của Expana ước tính sản lượng đạt 43 triệu bao.
Giá ca cao New York giảm 1,3% xuống 11.954 USD/tấn vào phiên 20/12, nhưng kết thúc tuần với mức tăng 7% và từng đạt mức cao kỷ lục 12.931 USD/tấn vào ngày 18/12. Tương tự, giá ca cao London giảm 1,8%, xuống 9.492 bảng Anh/tấn, song mức tăng giá kỷ lục trong năm nay được thúc đẩy bởi sự thoái lui của các quỹ đầu cơ, vốn chi phối hoạt động của thị trường này trong suốt thời gian qua.
Thị trường ca cao tiếp tục được hỗ trợ bởi triển vọng sản lượng giảm tại các quốc gia trồng ca cao lớn như Bờ Biển Ngà và Ghana. Nhiều dự báo cho rằng, thị trường này sẽ tiếp tục đối mặt với tình trạng thâm hụt toàn cầu trong niên vụ 2024-2025, là năm thứ tư liên tiếp.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng nhẹ vào trong phiên 20/12 do JPY yếu, nhưng giảm trong tuần với bối cảnh triển vọng nhu cầu toàn cầu ảm đạm. Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 5/2025 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 1,1 JPY (+0,3%) lên 367,0 JPY (2,34 USD)/kg, nhưng giảm 0,65% trong tuần.
Hợp đồng cao su tháng 5/2025 trên sàn SHFE giảm 45 CNY (-0,25%) xuống 17.660 CNY (2.420,11 USD)/tấn vàgiảm 4,27% trong tuần này.
Giá dầu cọ Malaysia kỳ hạn tương lai giảm trong phiên cuối tuần tuần qua và ghi nhận tuần giảm thứ hai liên tiếp trước áp lực nhu cầu xuất khẩu chậm chạp.
Cụ thể, hợp đồng dầu cọ tháng 3/2025 trên Sàn giao dịch phái sinh Bursa Malaysia giảm 74 ringgit (-1,64%) về 4.434 ringgit/tấn và giảm 9,6% cả tuần.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |