Thận trọng tìm hướng đi phù hợp

(ĐTCK) Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định, tại Việt Nam, dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ rất hạn chế, cần theo dõi chặt chẽ các rủi ro tỷ giá và lạm phát trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và tín dụng ở mức cao.
Cần ưu tiên kiểm soát mức độ mất giá VND để ổn định vĩ mô

Các vấn đề “xếp hàng” ưu tiên

Chia sẻ tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025 diễn ra giữa tuần qua, ông Hoàng Mai Chung - Chủ tịch Hội đồng quản trị Meey Group cho hay, thách thức lớn nhất của cộng đồng doanh nghiệp hiện nay là công nghệ và nguồn vốn.

Theo ông Chung, công nghệ là cuộc chơi tốn kém, đòi hỏi đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát triển (R&D), nhân tài và mở rộng thị trường. Tuy nhiên, tài sản lớn nhất của start-up là “tài sản vô hình” (ý tưởng, dữ liệu, đội ngũ), khiến việc tiếp cận tín dụng ngân hàng truyền thống trở nên bất khả thi.

“Nhiều mô hình kinh doanh đột phá đã phải dừng bước chỉ vì thiếu vốn trong giai đoạn quan trọng nhất”, ông Chung nói.

Ông Nguyễn Bá Diệp - đồng sáng lập MoMo cũng nhấn mạnh vấn đề vốn - “chiếc van” quan trọng nhất của đổi mới và cho biết, Việt Nam hiện có khoảng 55 triệu người trong độ tuổi lao động và 5 triệu hộ tiểu thương hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ, dịch vụ. Tuy nhiên, thực tế chỉ có khoảng 30% tiếp cận được với các khoản vay từ ngân hàng do không chứng minh được thu nhập và tài sản.

Bên cạnh đó, ông Diệp cũng đề cập đến một trong những vấn đề được các doanh nghiệp trăn trở đó là lãi suất. Theo ông Diệp, việc xây dựng hệ thống chấm điểm khả tín và mô hình tiếp cận dịch vụ tài chính, từ đó có thể giảm được chi phí lãi vay cho người dân, doanh nghiệp, đề xuất Chính phủ cho phép chia sẻ theo quy định pháp luật các thông tin liên quan đến dữ liệu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, dữ liệu thương mại điện tử, viễn thông…

“Khi ngân hàng xác định được khả năng khách hàng trả nợ càng cao, giảm tỷ lệ vay không thu hồi được, thì lãi suất sẽ giảm đáng kể”, ông Diệp nói.

Cùng với câu chuyện vốn, lãi suất là tỷ giá. Đúng như các dự báo trước đó, trong cuộc họp ngày 17/9/2025, Fed đã quyết định giảm lãi suất 25 điểm cơ bản, đồng thời phát tín hiệu sẽ có thêm 2 đợt giảm lãi suất nữa từ nay tới cuối năm, trong bối cảnh lo ngại về thị trường lao động ngày càng lớn. Khi căng thẳng thương mại toàn cầu tiếp tục hạ nhiệt, các rủi ro đối với tiền tệ châu Á cũng giảm dần.

Tốc độ giảm giá của đồng USD so với các đồng tiền châu Á có thể diễn ra ở mức vừa phải, do triển vọng tăng trưởng kinh tế còn nhiều thách thức tại khu vực và lập trường chính sách tiền tệ ôn hòa của các ngân hàng trung ương châu Á có thể làm giảm sức hấp dẫn đầu tư vào tiền tệ khu vực. Theo đó, sức mạnh của tiền tệ châu Á sẽ được hỗ trợ một phần bởi xu hướng giảm tiếp của tỷ giá USD/CNY. Dự báo, tỷ giá USD/CNY giảm xuống 7,11 CNY/USD vào quý IV/2025 và 7,02 CNY/USD vào quý III/2026.

Ngược chiều xu hướng khu vực, tỷ giá USD/VND đã suy yếu xuống mức thấp kỷ lục 26.436 đồng/USD trong tháng 8 qua, tương ứng mức giảm 3,4% tính từ đầu năm 2025 và đánh dấu năm thứ 4 liên tiếp mất giá. Mặc dù Việt Nam đã đạt được thỏa thuận thương mại với Mỹ, qua đó giảm mức thuế xuống còn 20%, nhưng sự bất định vẫn còn xoay quanh mức thuế 40% áp dụng cho hàng hóa trung chuyển. Điều này có thể khiến các doanh nghiệp phải đánh giá lại chiến lược chuỗi cung ứng, từ đó làm giảm sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài.

“VND có thể không tận dụng được hết lợi thế từ xu hướng suy yếu trở lại của USD - được kỳ vọng diễn ra khi Fed bắt đầu chu kỳ cắt giảm lãi suất. Đáng chú ý, sự mất giá của VND dù tác động không lớn đến xuất khẩu, nhưng lại làm tăng lạm phát. Vì vậy, việc kiểm soát mức độ mất giá VND trong năm 2025 vẫn cần được ưu tiên để ổn định vĩ mô”, TS. Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia kinh tế nhận định.

Đồng bộ các giải pháp

Ban Giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khuyến nghị, Việt Nam cần lưu ý mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của nền kinh tế phải đối mặt với những thách thức ngày càng tăng đến từ các chính sách thương mại toàn cầu không chắc chắn và thay đổi nhanh chóng, sự già hóa dân số, điều kiện tài chính toàn cầu siết chặt và biến đổi khí hậu.

Bên cạnh đó, các chính sách cần tập trung duy trì sức chống chịu của nền kinh tế và ổn định tài chính, đồng thời thúc đẩy cải cách để duy trì tăng trưởng mạnh, đa dạng và ổn định trong trung hạn; tiếp tục duy trì sự linh hoạt trong phối hợp điều hành chính sách để ứng phó với môi trường kinh tế biến động.

“Với dư địa hiện tại, chính sách tài khóa có thể gánh vác vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ hoạt động kinh tế một cách thận trọng, đặc biệt trong trường hợp cần có biện pháp hỗ trợ tạm thời và có mục tiêu”, IMF nhận định.

Theo IMF, dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ là rất hạn chế, cần theo dõi chặt chẽ các rủi ro tỷ giá và lạm phát trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và tín dụng ở mức cao. Tỷ giá linh hoạt hơn là yếu tố quan trọng để tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh trước các cú sốc từ bên ngoài, lưu ý đến những lợi ích của việc đẩy nhanh hiện đại hóa khuôn khổ chính sách tiền tệ nhằm quản lý rủi ro hiệu quả hơn.

IMF nhấn mạnh rằng, củng cố khuôn khổ tài khóa trung hạn có ý nghĩa then chốt để thu hoạch được những lợi ích tăng trưởng từ kế hoạch đầu tư công quy mô lớn, đảm bảo tính bền vững của nợ công. Cần thiết phải nâng cấp quản lý đầu tư công, tăng cường huy động thu ngân sách, nâng cao tính minh bạch tài khóa và quản lý rủi ro tốt hơn, bao gồm cả những rủi ro từ các dự án đối tác công - tư. Cần thiết phải tăng cường khả năng chống chịu của khu vực tài chính trước các cú sốc, với ưu tiên hàng đầu là củng cố các bộ đệm thanh khoản và vốn, cải thiện bộ công cụ an toàn vĩ mô.

Từ thực tiễn hoạt động, ông Đỗ Quang Vinh - Phó chủ tịch Tập đoàn T&T Group đưa ra kiến nghị tại Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2025:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, loại bỏ rào cản để doanh nghiệp tư nhân được tiếp cận công bằng các nguồn lực như đất đai, tín dụng, hạ tầng, chính sách thuế phí…, từ đó tạo môi trường kinh doanh ổn định, giảm rủi ro chính sách. Khi rào cản được tháo gỡ, doanh nghiệp tư nhân sẽ mạnh dạn đầu tư dài hạn, kể cả những lĩnh vực mới, khó và đòi hỏi công nghệ cao, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế.

Thứ hai, xây dựng cơ chế ưu đãi vốn trung - dài hạn, đặc biệt là những ngành then chốt, có vai trò động lực, đòi hỏi vốn lớn và dài hơi như hàng không, logistics, năng lượng, hạ tầng… Bên cạnh việc tăng cường tín dụng ưu đãi, cần phát triển thị trường vốn lành mạnh, thúc đẩy phát hành trái phiếu doanh nghiệp an toàn, khuyến khích huy động vốn quốc tế và hình thành các quỹ đầu tư phát triển hạ tầng, quỹ đổi mới sáng tạo. Đây sẽ là nguồn lực quan trọng để doanh nghiệp tư nhân đủ sức đầu tư các công trình tầm vóc quốc gia và khu vực.

Thứ ba, cần đẩy mạnh chuyển đổi số, mở rộng dữ liệu quốc gia và đơn giản hóa thủ tục hành chính. Một trong những khó khăn lớn của doanh nghiệp là mất nhiều thời gian, chi phí trong việc tiếp cận thông tin, làm thủ tục đầu tư, đất đai, xây dựng, thuế, hải quan. Việc đồng bộ hóa dữ liệu giữa các bộ, ngành, đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến toàn trình, cùng với việc mở rộng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, doanh nghiệp, tài chính… sẽ giúp tiết kiệm đáng kể nguồn lực cho cả Nhà nước và doanh nghiệp. Đồng thời, điều này còn nâng cao tính minh bạch, dự báo, tạo môi trường kinh doanh hiện đại, thuận lợi, gắn với xu thế quản trị số toàn cầu.

Bà Mariam J. Sherman - Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, Campuchia và Lào nhận định: “Với tỷ lệ nợ công thấp, Việt Nam có dư địa tài khóa dồi dào. Nếu được thực hiện hiệu quả, đầu tư công sẽ vừa giải quyết những bất cập hạ tầng, vừa tạo thêm việc làm. Song song với đó, cần thúc tiếp tục đẩy cải cách để củng cố dịch vụ thiết yếu, xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển nguồn lực con người và đa dạng hóa thương mại. Đây chính là những yếu tố then chốt giúp Việt Nam giảm thiểu rủi ro toàn cầu và duy trì tăng trưởng dài hạn”.

Nhuệ Mẫn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục