Tạm biệt thời kỳ dòng tiền dễ dãi khi các ngân hàng trung ương tăng tốc độ tăng lãi suất

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Giai đoạn dòng tiền dễ dãi giúp khuếch đại sức nóng của thị trường tài chính toàn cầu đã gần đến hồi kết.
Tạm biệt thời kỳ dòng tiền dễ dãi khi các ngân hàng trung ương tăng tốc độ tăng lãi suất

Hai năm sau khi đại dịch khiến nền kinh tế toàn cầu rơi vào một cuộc suy thoái sâu nhưng ngắn hạn, các ngân hàng trung ương đang rút lại các gói hỗ trợ khẩn cấp và đang di chuyển nhanh hơn các quan chức dự tính hoặc hầu hết các nhà đầu tư đã dự đoán.

Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đang chuẩn bị tăng lãi suất vào tháng 3 và báo cáo việc làm vào thứ Sáu tuần trước (4/2) đã thúc đẩy suy đoán rằng Fed có thể cần phải sớm tăng lãi suất. Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) cũng vừa thực hiện hai đợt tăng lãi suất liên tiếp và một số quan chức của ngân hàng này muốn hành động mạnh mẽ hơn. Ngân hàng Canada sẽ khởi động việc tăng lãi suất vào tháng tới. Ngay cả Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) cũng có thể vào cuộc vào cuối năm nay.

Lãi suất phải tăng vì các nhà hoạch định chính sách đánh giá rằng cú sốc lạm phát toàn cầu hiện đang gây ra mối đe dọa lớn hơn là thiệt hại thêm đối với tăng trưởng từ Covid-19. Một số nhà hoạch định chính sách cho biết rằng, họ đã mất quá nhiều thời gian để đi đến kết luận đó. Những người khác lo lắng rằng xu hướng diều hâu có thể làm chậm sự phục hồi mà không giúp làm giảm lạm phát, vì một số sự gia tăng có liên quan đến vấn đề nguồn cung nằm ngoài tầm với của chính sách tiền tệ.

Nhưng vẫn có một số ngoại lệ giữa các nền kinh tế lớn nhất.

Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) đang đi theo hướng ngược lại. Động thái của PBOC có khả năng làm cho tín dụng rẻ hơn so với thời điểm khi đại dịch mới bùng phát và triển vọng sụt giảm trong lĩnh vực bất động sản đối với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) cũng dự kiến ​​sẽ giữ nguyên chính sách tiền tệ trong năm nay, mặc dù các nhà giao dịch đang bắt đầu tự hỏi liệu BOJ có thể giữ nguyên chính sách như dự kiến hay không.

Tại các thị trường mới nổi, nhiều ngân hàng trung ương đã bắt đầu tăng lãi suất vào năm 2021.

Chỉ trong tuần trước, Brazil đã tăng lãi suất lần thứ ba liên tiếp trong khi Cộng hòa Séc đã nâng lãi suất lên mức cao nhất trong Liên minh châu Âu.

Nga, Ba Lan, Mexico và Peru có thể mở rộng các chiến dịch thắt chặt chính sách tiền tệ trong tuần này mặc dù một số người cho rằng chu kỳ của Mỹ Latinh có thể đạt đến đỉnh điểm.

Các nhà kinh tế tại JPMorgan ước tính rằng vào tháng 4, lãi suất sẽ tăng ở các quốc gia chiếm khoảng 50% tổng sản phẩm quốc nội của thế giới so với chỉ mức 5% như hiện nay. Các nhà kinh tế kỳ vọng mức lãi suất trung bình toàn cầu sẽ vào khoảng 2% vào cuối năm nay - xấp xỉ mức trước đại dịch.

Tất cả những điều này cho thấy chính sách tiền tệ đang bước vào giai đoạn thắt chặt lớn nhất kể từ những năm 1990. Các ngân hàng trung ương cũng đang rút lại các chương trình mua trái phiếu mà họ đã sử dụng để giảm chi phí vay dài hạn. Bloomberg Economics tính toán bảng cân đối kế toán của G7 sẽ đạt đỉnh vào giữa năm nay.

Nhà kinh tế Aditya Bhave của Bank of America cho biết: “Thế cục đã thay đổi. Sự gia tăng lạm phát toàn cầu đã kéo theo chu kỳ tăng vọt của ngân hàng trung ương và thu hẹp bảng cân đối kế toán trên diện rộng”.

Quá trình xoay trục chính sách tiền tệ có thể kết thúc một cuộc đại dịch đã góp phần làm bùng nổ các thị trường tài chính được khuếch đại bởi dòng tiền dễ dãi.

Chỉ số chứng khoán MSCI toàn cầu đã giảm khoảng 5% trong năm nay. Giá trái phiếu đã giảm và khiến lợi suất tăng cao hơn.

Điều đã buộc ngân hàng trung ương phải xem xét lại về một làn sóng lạm phát. Điều này được thúc đẩy bởi sự mất kết nối giữa nhu cầu tăng cao ở các nền kinh tế sau thời kỳ phong toả và sự thiếu hụt nguồn cung của một số mặt hàng, vật liệu và hàng hóa quan trọng cũng như người lao động.

Giờ đây, các nhà hoạch định chính sách đã quyết định rằng lạm phát không còn là tạm thời và nếu không kiểm soát lạm phát sẽ có nguy cơ gây ra một vòng xoáy tăng giá và tiền lương.

Có rủi ro theo cả hai hướng

Theo các nhà kinh tế của JPMorgan do Bruce Kasman dẫn đầu, lạm phát có thể sẽ tiếp tục được thúc đẩy bởi tỷ lệ thất nghiệp giảm và nhu cầu mới về dịch vụ khi các nền kinh tế chứng tỏ khả năng chống chịu với biến thể omicron.

Một số nhà kinh tế và nhà đầu tư tên tuổi cảnh báo rằng các ngân hàng trung ương vẫn đang không nắm bắt đầy đủ quy mô của các biện pháp mà họ sẽ phải thực hiện.

Nhưng việc tăng nhanh lãi suất hiện nay có thể phản tác dụng nếu lạm phát bắt đầu giảm dần khi chuỗi cung ứng lành lại và sức nóng của thị trường hàng hóa nguội đi. Điều đó có thể khiến các cài đặt chính sách đột nhiên trông quá chặt chẽ như đã xảy ra với ECB vào một thập kỷ trước.

Và nếu lạm phát vẫn tiếp tục diễn ra, lạm phát này có thể không phải là loại có thể được quản lý bằng chính sách tiền tệ.

Các chiến lược gia tại BlackRock cho rằng, giá đang tăng nhanh hơn do các vấn đề về nguồn cung và các ngân hàng trung ương nên học cách sống chung với điều đó. Bloomberg Economics tính toán rằng nếu BoE muốn đưa lạm phát xuống mức mục tiêu 2% trong năm nay, thì họ sẽ phải tăng lãi suất đủ để khiến 1,2 triệu người mất việc làm.

Nhưng hiện tại, cách duy nhất là tăng lãi suất trên toàn cầu.

Các rất nhiều dự báo rất khác nhau về số lần Fed tăng lãi suất trong năm nay. Trong khi Barclays Plc tính toán Fed sẽ tăng lãi suất 3 lần, Bank of America dự kiến ​​là 7 lần.

Sau khi thực hiện một sự thay đổi chính sách đột ngột, các ngân hàng trung ương cần phải tìm cách truyền đạt các kế hoạch mới của mình cho các nhà đầu tư. Nếu không, thị trường chứng khoán có thể sẽ gặp nhiều khó khăn.

Vũ Duy Bắc
Theo báo chí nước ngoài

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục