Ông Hoàng Hải, Phó cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính chia sẻ thông tin về khoản bảo lãnh của Chính phủ đối với khối doanh nghiệp vừa qua.
Dư luận rất quan tâm đến khoản bảo lãnh không hiệu quả của Chính phủ tại nhiều dự án xi măng như: Hạ Long, Đồng Bành… Số phận của các khoản vốn được Chính phủ bảo lãnh đến nay ra sao, khả năng trả nợ của bên vay thế nào?
Tuân thủ quy định về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ, Bộ Tài chính đã yêu cầu các doanh nghiệp nhận nợ với Quỹ tích lũy trả nợ khi Quỹ phải đứng ra trả nợ thay cho các doanh nghiệp là chủ đầu tư các dự án: Xi măng Hạ Long, Xi măng Đồng Bành, Giấy Phương Nam.
Rủi ro mất khả năng trả nợ của các dự án xi măng xuất phát từ bối cảnh giai đoạn 2006 - 2010, thị trường bất động sản tăng nóng nhờ đòn bẩy tài chính, kéo theo hàng loạt dự án xi măng được xúc tiến triển khai, trong đó có các dự án được Chính phủ cấp bảo lãnh vay vốn.
Khi thị trường bất động sản suy yếu đã khiến cho các dự án xi măng lâm vào khó khăn. Trong bối cảnh đó, chúng tôi đã phải tái cơ cấu nợ một số dự án như: Xi măng Tam Điệp, Xi măng Hoàng Mai. Đến nay, các dự án này đã trả được nợ mà Chính phủ bảo lãnh và không cần Chính phủ can thiệp.
Riêng Dự án Xi măng Đồng Bành, sau khi Chính phủ chấp thuận phương án chuyển nhượng cổ phần của Tổng công ty Cơ khí Xây dựng (Coma) tại Công ty cổ phần Xi măng Đồng Bành (Lạng Sơn) cho Công ty TNHH Tập đoàn Hoàng Phát Vissai (Ninh Bình), Vissai đứng ra nhận và trả nợ.
Còn Dự án Xi măng Hạ Long, sau khi chuyển chủ nợ về Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam, thì đã trả đầy đủ các khoản nợ do Chính phủ đứng ra bảo lãnh khi đến hạn.
Với Dự án Giấy Phương Nam, tổng giá trị vốn mà Chính phủ đứng ra bảo lãnh cho vay là bao nhiêu?
Hiện chúng tôi chưa có con số cập nhật. Dự án Giấy Phương Nam hiện không có khả năng thu hồi được vốn, nên Chính phủ phải trả nợ.
Sau khi trao đổi với Bộ Công thương và Tổng công ty Giấy Việt Nam, Bộ Tài chính đang phối hợp với các bộ, ngành trao đổi với Chính phủ và ngân hàng của Áo về phương án tài chính, chia sẻ rủi ro với khoản nợ này.
Các dự án trên đều liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong khi theo quy định, việc cấp bảo lãnh của Chính phủ cho các doanh nghiệp vay vốn không phân biệt là DNNN hay doanh nghiệp tư nhân. Ở đây có sự ưu ái trong cấp bảo lãnh của Chính phủ cho các DNNN vay vốn không, theo ông?
Về nguyên tắc, bảo lãnh Chính phủ không phân biệt bảo lãnh cho DNNN hay doanh nghiệp tư nhân, nhưng bảo lãnh là công cụ hỗ trợ phát triển của Chính phủ, nên cần được cấp và quản lý hiệu quả, hợp lý.
Ngoài nhiệm vụ kinh doanh, DNNN còn thực hiện một số nhiệm vụ công ích, nên Chính phủ có hỗ trợ doanh nghiệp trong tiếp cận các nguồn vốn trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả tài chính, vay trả rõ ràng.
Chính phủ cũng bảo lãnh cho doanh nghiệp tư nhân vay vốn, thể hiện ở các dự án thủy điện quy mô vừa ở phía Bắc.
Theo số liệu từ Bộ Tài chính, nợ được Chính phủ bão lãnh vào cuối năm 2016 chiếm 10,2% GDP, vậy DNNN chiếm tỷ trọng bao nhiêu, đâu là các DNNN đang được Chính phủ bảo lãnh cho các khoản vay lớn?
Nợ được Chính phủ bão lãnh chiếm 10,2% GDP, trong đó khoảng 80% là bảo lãnh cho DNNN. Trong danh mục cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ, thì các doanh nghiệp được bảo lãnh nhiều và chiếm tỷ trọng cao nhất trong danh mục DNNN được Chính phủ bảo lãnh vay vốn có Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (TKV).
Nợ được Chính phủ bão lãnh chiếm 10,2% GDP có cao và gây áp lực lên nợ công; trong chiến lược quản lý nợ công có giảm tỷ lệ này trong thời gian tới?
Theo chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam, nợ được Chính phủ bảo lãnh vào cuối năm 2020 không được vượt quá 12% GDP; trong định hướng điều hành thì cố gắng ở mức không quá 10%.
Để đạt mục tiêu trên, qua đó góp phần giữ an toàn nợ công, theo quy định tại Nghị định 04/2017/NĐ-CP thay thế Nghị định 15/2011/NĐ-CP về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ có hiệu lực từ ngày 1/3/2017, mức bảo lãnh Chính phủ giảm từ 80% tổng mức đầu tư của chương trình, dự án xuống không quá 70%, tùy theo cấp độ quan trọng của dự án.
Việc siết điều kiện cấp bảo lãnh Chính phủ vừa nhằm giảm tỷ trọng vốn vay của các doanh nghiệp, dự án được Chính phủ bảo lãnh để giảm rủi ro cho Chính phủ và tăng an toàn nợ công, vừa phù hợp với định hướng thúc đẩy các doanh nghiệp vay thương mại theo cơ chế tự vay, tự trả.
Quy định mới còn khắc phục tình trạng vai trò mờ nhạt, chưa rõ ràng của các cơ quan chủ quản là bộ, ngành trong quá trình tham gia thẩm định, cấp bảo lãnh Chính phủ cho các DNNN dẫn đến khi doanh nghiệp không trả được nợ khó truy trách nhiệm; tăng cường các công cụ giám sát, quản lý rủi ro đối với cấp bảo lãnh Chính phủ.