Sáu góc độ về đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài

Đường lối mở cửa, hội nhập không chỉ thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, mà còn góp phần hình thành các doanh nghiệp đưa vốn ra nước ngoài để đầu tư.
Sáu góc độ về đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài

Ở góc độ thứ nhất, cùng với việc phát triển các thành phần kinh tế, chuyển cơ chế từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam…, việc đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài là kết quả của đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập. Điều này phản ánh sự trưởng thành của doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam, không chỉ đầu tư ở trong nước, mà còn đầu tư ra nước ngoài.

Ở góc độ thứ hai, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam được thực hiện khá sớm, ngay từ năm 1989 khi Việt Nam chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tiềm ẩn từ cuối những năm 70, bùng phát vào những năm 80 của thế kỷ trước.

Ở góc độ thứ ba, tổng lượng vốn đăng ký của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài tuy chưa lớn (bình quân 1 năm đạt 887,5 triệu USD, bình quân 1 dự án đạt 23,9 triệu USD), nhưng đã bằng gần 1/10 tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp mà Việt Nam thu hút từ nước ngoài). Nói cách khác, đây là lượng vốn không nhỏ đối với Việt Nam đi lên từ nước nông nghiệp trong suốt chiều dài lịch sử là độc canh lúa nước.

Ở góc độ thứ tư, quy mô vốn đăng ký đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam đã tăng khá qua các thời kỳ. Thời kỳ 2008-2013 lớn gấp 10 lần thời kỳ 1989-2007. Nếu tính bình quân năm, thì thời kỳ 2008-2013 lớn gấp 25,6 lần thời kỳ 1989-2007 (tương ứng 2.958 triệu USD/năm so với 93,7 triệu USD/năm). Bình quân lượng vốn đăng ký/dự án đã tăng (từ 7,1 triệu USD thời kỳ 1989-2007, lên 32,4 triệu USD thời kỳ 2008-2013).

Ở góc độ thứ năm, lượng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam vào các nhóm ngành với tỷ trọng đáng lưu ý. Lượng vốn đầu tư vào nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản chiếm 16,5% tổng số, với mức vốn bình quân 1 dự án đạt 25,6 triệu USD. Đây là tỷ trọng và mức vốn/dự án khá, phù hợp với lợi thế, kinh nghiệm các doanh nghiệp, doanh nhân ở một nước đi lên từ sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản. Lượng vốn đầu tư vào nhóm ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 60% tổng số, với mức vốn bình quân 1 dự án đạt 46,6 triệu USD, cao gấp đôi mức bình quân chung. Đây là xu hướng phát triển đi vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước. Lượng vốn đầu tư vào nhóm ngành dịch vụ chiếm 18,6% tổng số, với mức bình quân 1 dự án đạt xấp xỉ 10 triệu USD.

Ở góc độ thứ sáu, theo nước và vùng lãnh thổ, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam đã trải rộng ra khá nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, từ các nước trong khu vực Đông Nam Á (7  nước với 9,07 tỷ USD, chiếm 54,6% tổng số), đến các nước châu Á (10 nước và vùng lãnh thổ trên 9,17 tỷ USD, chiếm 55,2% tổng số), đến châu Mỹ (gần 3,64 tỷ USD, chiếm 21,9% tổng số), châu Phi (trên 1,85 tỷ USD, chiếm 11,1% tổng số), châu Âu (gần 1,72 tỷ USD, chiếm 10,3% tổng số), châu Úc (150 triệu USD, chiếm 0,9% tổng số)…

Hiện có hai loại ý kiến đối với việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam.

Trong báo cáo thẩm tra Dự án Luật Đầu tư sửa đổi, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, trong khi Việt Nam đang rất cần vốn để phát triển kinh tế, thì chưa nên khuyến khích đầu tư ra nước ngoài; cần tăng cường quản lý, kiểm soát dòng vốn đầu tư ra nước ngoài…

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, trong lúc tổng cầu ở trong nước “co lại” và còn yếu, thì nên gia tăng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Do vậy, cần có định hướng, chiến lược cụ thể để hoạt động này ngày càng mang lại hiệu quả cao, đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế.

Minh Nhung
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục