Ba đòn bẩy chính sách và khoảng cách với thực tiễn
Chia sẻ tại Hội thảo “Phát triển bền vững 2025: Động lực cho Kỷ nguyên mới” do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức ngày 27/11 vừa qua, ông Vũ Thái Trường, Trưởng phòng Biến đổi khí hậu, UNDP Việt Nam cho biết, các chính sách của Việt Nam đã và đang dần tiếp cận chuẩn mực quốc tế.
Theo ông Trường, Việt Nam đang đi đúng hướng trong ban hành chính sách thúc đẩy phát triển bền vững như Luật Bảo vệ môi trường, Quyết định số 687/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn, Quyết định 222/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035, Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh.
Đây là bước đi tiến bộ, phù hợp với xu hướng toàn cầu, tạo nền tảng mạnh mẽ để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào các thị trường có tiêu chuẩn cao như Mỹ, Nhật Bản, EU…
Tuy nhiên, theo ông Trường, thực tế vẫn còn khoảng trống giữa chính sách và thực tiễn. Doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn hạn chế trong áp dụng công nghệ, kỹ thuật để đáp ứng tiêu chuẩn môi trường; thiếu dữ liệu và ứng dụng cụ thể để triển khai kinh tế tuần hoàn; đồng thời hạn chế về nguồn lực tài chính để đầu tư công nghệ xanh và phát triển nhân lực.
“Từ góc nhìn của UNDP, chúng tôi cho rằng, chúng ta đã có chính sách, nhưng cần những công cụ hỗ trợ phù hợp như hướng dẫn đào tạo, cơ chế tài chính xanh, chuẩn hóa dữ liệu để chia sẻ minh bạch, công khai.
UNDP đồng hành với các bộ, ngành xây dựng các nghiên cứu đánh giá làm cơ sở đầu vào cho hoàn thiện thể chế, chính sách. Điều quan trọng không phải là tốc độ, mà là quản trị được quá trình chuyển đổi”, đại diện UNDP Việt Nam nhấn mạnh.
Hiện nhiều quốc gia đang sử dụng tiêu chuẩn môi trường như một rào cản thương mại. Doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cấp chuỗi giá trị, tăng cường sức cạnh tranh và thu hút đầu tư, trang bị đầy đủ kỹ năng, công nghệ và nguồn lực con người. Trong nguy có cơ, doanh nghiệp phải sẵn sàng thích ứng bởi xu hướng phi carbon hóa là không thể đảo ngược.
Ông Tạ Đức Bình, Chuyên gia Viện Chiến lược chính sách Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, Việt Nam có ba đòn bẩy chính sách quan trọng.
Thứ nhất, bộ tứ trụ cột chính sách gồm Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 59-NQ/TW, Nghị quyết 66-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW, với bốn trụ cột: thể chế, công nghệ, nhân lực và tài chính - theo xu hướng thể chế dẫn dắt, doanh nghiệp đồng hành và công nghệ tiên phong.
Thứ hai, tính minh bạch trong hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng cải thiện. Đặc biệt, danh mục phân loại xanh theo Quyết định 21/2025/QĐ-TTg là bước ngoặt giúp dòng vốn được phân loại rõ ràng hơn, tạo nền tảng cho tài chính xanh và các công cụ tài chính khác.
Thứ ba, động lực đến từ xu thế phát triển xanh và đầu tư xanh đang mạnh mẽ trên toàn cầu, giúp thu hút sâu hơn các dòng vốn quốc tế, hướng tới sự bền vững.
Tuy nhiên, theo ông Bình, ở bất kỳ nền kinh tế nào cũng tồn tại khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn, bởi triển khai chính sách phụ thuộc vào hàng loạt tổ chức. Chính sách tốt cần đi kèm khả năng phối hợp liên ngành hiệu quả - mắt xích quan trọng trong phát triển kinh tế xanh.
“Cần đánh giá đúng tác nhân, điểm nghẽn trong thực thi để có sự điều chỉnh kịp thời, thu hẹp khoảng cách giữa ban hành và triển khai chính sách”, ông Bình kiến nghị.
Doanh nghiệp nhìn rõ bệ phóng để tăng tốc xanh hóa
Ông Lê Anh, Giám đốc phát triển bền vững, Công ty cổ phần Nhựa tái chế Duy Tân cho biết, Nghị quyết 57-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW là động lực lớn cho doanh nghiệp.
Là doanh nghiệp tái chế duy nhất được chứng nhận công nghệ cao của Bộ Khoa học và Công nghệ, Công ty luôn chú trọng chất lượng sản phẩm, sử dụng thiết bị hiện đại, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong chế biến - nơi công nghệ đóng vai trò quyết định.
Từ những động lực mà Nghị quyết 68-NQ/TW mang lại, Nhựa tái chế Duy Tân đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, UNDP và các bộ, ngành để thiết kế chai nhựa thân thiện môi trường.
Để rút ngắn khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn, cần những công cụ hỗ trợ, cơ chế phối hợp và nguồn lực đủ mạnh để doanh nghiệp thích ứng và vươn lên.
“Chính sách đã thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong ngành nhựa rất mạnh. Điển hình, năm 2021, nhà máy vận hành công suất 20.000 tấn/năm nhưng chỉ 10% - tương đương 2.000 tấn - tiêu thụ trong nước, còn lại xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ.
Nhưng đến năm 2025, nhờ động lực chính sách, tỷ lệ tiêu thụ trong nước tăng lên 40%, sản lượng đạt 40.000 tấn, tức từ 2.000 tấn năm 2021 tăng lên 16.000 tấn năm 2025 - gấp 8 lần. Nhu cầu trong nước tăng mạnh là minh chứng rõ ràng cho tác động chính sách đối với sản xuất, đặc biệt trong các lĩnh vực liên quan đến phát triển bền vững”, ông Lê Anh cho biết.
Ông Bùi Trung Kiên, Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Đầu tư CME Solar nhìn nhận, bốn trụ cột (Nghị quyết 57, 59, 66, 68) đã “chạm đúng điểm cốt lõi” mà doanh nghiệp cần để đóng góp vào phát triển kinh tế. Chuyển đổi số, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện pháp lý và sự nhất quán trong hệ thống văn bản đã tạo động lực rõ rệt cho doanh nghiệp.
Theo ông Kiên, Đầu tư CME Solar - thành lập năm 2019, tiên phong trong năng lượng tái tạo - đang hưởng lợi từ hệ thống pháp lý ngày càng hoàn thiện. Các văn bản mới được ban hành góp phần tháo gỡ vướng mắc, đặc biệt trong điện mặt trời áp mái.
Nghị định 57/2025/NĐ-CP quy định cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo và khách hàng sử dụng điện lớn và Nghị định 58/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Điện lực về phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới được triển khai nhanh, có quy trình hướng dẫn cụ thể thể hiện quyết tâm từ phía quản lý.
Quy hoạch Điện VIII sửa đổi cũng nhấn mạnh chuyển dịch mạnh mẽ sang năng lượng tái tạo, nâng tổng công suất điện mặt trời mái nhà lên 46-73 GW vào năm 2030. Đây là mục tiêu lớn, nhiều thách thức, đòi hỏi chính sách ổn định và sự chung tay của doanh nghiệp.
Nhìn về cơ hội, ông Tạ Đức Bình cho rằng, Việt Nam đang ở vị thế đặc biệt giữa hai cực - hai mô hình. Khi chính sách thuế quan của Mỹ được ban hành, cục diện thể hiện rõ sự phân cực: phương Tây có vốn, công nghệ, ý tưởng; trong khi châu Á có thế mạnh sản xuất, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam có cơ hội trở thành “cầu nối” giữa hai cực này để hướng tới vai trò kiến trúc sư của tăng trưởng xanh.
Ông Bình dẫn chứng: trong sản xuất pin xe điện - mắt xích quan trọng của kinh tế tuần hoàn - pin sau khi hao hụt còn 50-70% có thể tái sử dụng làm thiết bị lưu trữ năng lượng tái tạo. Khi pin hết vòng đời, có thể tái chế hoàn toàn. Đây là cơ hội để Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi thiết kế - tái chế pin xe điện, khi lĩnh vực này trên thế giới mới chỉ ở giai đoạn đầu và Việt Nam chưa bị bỏ lại phía sau.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Tâm nhấn mạnh, trong những năm qua, đặc biệt năm 2025, Việt Nam đã chủ động thực hiện nhiều thay đổi chiến lược nhằm thích ứng với bối cảnh mới và phát triển bền vững. Việt Nam đang thúc đẩy mô hình tăng trưởng mới với trọng tâm là khu vực kinh tế tư nhân, đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học - công nghệ và các chuyển biến mang tính chiều sâu.
Chuyển đổi xanh không chỉ là yêu cầu toàn cầu, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tái cấu trúc chiến lược phát triển, giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và mở rộng thị trường xuất khẩu. Ngày càng nhiều thị trường yêu cầu hàng hóa phải đạt tiêu chuẩn xanh; doanh nghiệp Việt Nam nếu không đáp ứng kịp sẽ khó tiếp cận được.