Xu hướng quản trị tài sản công hiện đại
Tại cuộc họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra một yêu cầu đáng chú ý: khẩn trương thành lập Quỹ đầu tư Chính phủ trong tháng 12.
Giới chuyên gia và những người theo sát chủ đề này nhận định, khái niệm Quỹ đầu tư Chính phủ (SWF) nhiều khả năng sẽ được đề cập trong Nghị quyết về kinh tế nhà nước, dự kiến được Bộ Chính trị ban hành trong tháng 12.
Theo tìm hiểu của người viết, trong dự thảo Nghị quyết về kinh tế nhà nước do Bộ Tài chính hoàn tất, đã lấy ý kiến đóng góp và chuẩn bị trình cấp có thẩm quyền, chủ trương này được đề cập tương đối rõ nét. Theo đó, cần củng cố, phát huy mô hình Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) theo hướng kinh doanh vốn chuyên nghiệp, tiến tới hình thành SWF. Nguồn lực sẽ tập trung từ cơ cấu lại vốn tại doanh nghiệp và các nguồn lực Nhà nước giao khác để: đầu tư phát triển doanh nghiệp quy mô lớn, doanh nghiệp có hiệu quả cao; đầu tư các dự án trong những ngành, lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế; đồng thời triển khai đầu tư trực tiếp và hỗ trợ nguồn lực để doanh nghiệp nhà nước đầu tư ra nước ngoài, thực hiện M&A nhằm tiếp cận công nghệ mới, công nghệ lõi, công nghiệp chiến lược hoặc phục vụ mục tiêu lợi nhuận.
Định hướng này phù hợp với xu thế khu vực và thế giới, bối cảnh hội nhập sâu rộng cũng như đòi hỏi phát triển mới của Việt Nam. Các SWF đã vươn lên như những “siêu thể chế” với sức ảnh hưởng ngày càng lớn đối với tài chính toàn cầu và sự phát triển bền vững của nhiều quốc gia. Từ vai trò ổn định kinh tế vĩ mô, tích lũy cho tương lai, thúc đẩy tái cơ cấu doanh nghiệp đến gia tăng ảnh hưởng quốc gia, SWF trở thành cấu phần không thể thiếu trong quản trị tài sản công hiện đại.
Tính đến nay, tổng tài sản quản lý của các SWF trên toàn cầu đã vượt 12.000 tỷ USD, tăng gấp 4 lần sau một thập kỷ.
Hiệu quả hoạt động của các SWF được minh chứng rõ ràng. Đơn cử Temasek: năm 1974, Temasek được giao quản lý 35 doanh nghiệp thuộc nhiều ngành trọng yếu, với giá trị tương đương 8,5% GDP Singapore. Sau hơn 50 năm, danh mục ròng tăng lên 434 tỷ SGD (gần 300 tỷ USD), tương đương hơn 60% GDP ước tính năm 2025 của Singapore, nhờ chiến lược tái cấu trúc triệt để, IPO các doanh nghiệp chất lượng và thoái vốn hiệu quả. Từ khi thành lập, lợi nhuận cổ đông của Temasek đạt gần 15%/năm, thuộc nhóm cao nhất trong các SWF toàn cầu.
Không chỉ quản lý và đầu tư vốn hiệu quả, Temasek còn thiết lập mức độ minh bạch và chuẩn mực quản trị vượt trội. Quỹ tuân thủ đầy đủ, thậm chí cao hơn tiêu chuẩn Santiago Principles (Bộ hướng dẫn 24 nguyên tắc và thông lệ tốt nhất dành cho các SWF nhằm thúc đẩy tính minh bạch, quản trị tốt và ổn định hệ thống tài chính toàn cầu). Báo cáo tài chính, chiến lược và hiệu suất danh mục được công bố công khai, giúp gia tăng tính giải trình và niềm tin thị trường.
Tại Đông Nam Á, các SWF như Temasek, Khazanah, Danatara hay INA đều vận hành theo mô hình tiếp nhận vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu, tối ưu hóa giá trị và tái đầu tư theo nguyên tắc thị trường. Đây là cấu trúc có nhiều điểm tương đồng với bối cảnh và nhu cầu hiện tại của Việt Nam.
Đã đến thời điểm chuyển mô hình
Bộ Tài chính sẽ chủ trì xây dựng nghị định về cơ chế hoạt động đặc thù cho doanh nghiệp đầu tư - kinh doanh vốn, trong đó SCIC là nòng cốt.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cải cách doanh nghiệp nhà nước thời gian qua ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực: Nhà nước đã thu hẹp phạm vi đầu tư dàn trải, tập trung nguồn lực vào các ngành then chốt và cơ bản bảo toàn vốn.
Tuy nhiên, những thành công này mới chỉ dừng ở mức khởi đầu và chưa giải quyết được điểm nghẽn cốt lõi: tư duy quản lý. Dù Việt Nam đã nỗ lực tách bạch ba quyền (quyền kinh doanh, quyền chủ sở hữu, quyền quản lý nhà nước), nhưng thực tế bộ máy vận hành vẫn mang tính “hành chính chủ quản”. Do đó, Việt Nam rơi vào nghịch lý: mong muốn vận hành kinh tế thị trường nhưng quản lý dòng vốn và doanh nghiệp vẫn bằng công cụ hành chính, thay vì hoàn toàn là tư duy của một nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Hệ quả là sự thụ động lan rộng. Từ cổ phần hóa, định giá đến chuyển giao đều mang nặng tính thủ tục, khiến mục tiêu “bảo toàn vốn” bị biến tướng thành tư duy phòng thủ, bảo thủ và ngắn hạn. Tâm lý sợ rủi ro làm triệt tiêu khả năng huy động nguồn lực lớn để đầu tư vào mục tiêu chiến lược dài hạn như công nghệ lõi, chuỗi cung ứng hay vai trò dẫn dắt thị trường - những nhiệm vụ chỉ có tư duy đầu tư chấp nhận rủi ro mới thực hiện được.
Vì vậy, mấu chốt “cởi trói” cho SCIC và khu vực doanh nghiệp nhà nước là chuyển dịch mạnh mẽ từ tư duy “hành chính cai quản” sang vị thế “chủ sở hữu chuyên nghiệp, đầu tư chiến lược”.
Ông Nguyễn Chí Thành, Chủ tịch SCIC nhấn mạnh, giá trị của SCIC không chỉ nằm ở các báo cáo tài chính, mà còn thể hiện ở vai trò gánh vác nhiệm vụ chính trị - kinh tế trọng yếu. SCIC đã trực tiếp tham gia 4 dự án tầm cỡ quốc gia theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, gồm: giải cứu Vietnam Airlines trong đại dịch; xử lý dứt điểm hai dự án thép kéo dài là TISCO 2 và VTM; đầu tư chiến lược vào Cảng Vũng Áng để hỗ trợ nước bạn Lào có cửa ngõ ra biển. Các thương vụ này khẳng định vai trò điều tiết vĩ mô hiệu quả của SCIC.
Nếu Temasek phải mất 34 năm (1974-2008) để hoàn thành tái cơ cấu danh mục, SCIC chỉ mất 19 năm để thu gọn quy mô từ 1.000 doanh nghiệp xuống khoảng 100 doanh nghiệp. Tốc độ này cho thấy, SCIC đã cơ bản hoàn thành “sứ mệnh” và đang ở thời điểm chín muồi để chuyển mình thành tổ chức đầu tư chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, để bước nhảy vọt thành hiện thực, SCIC kiến nghị nhóm giải pháp cốt lõi nhằm tháo các gỡ rào cản hiện hữu. Về thể chế và mô hình, SCIC cần được ổn định dưới mô hình SWF sau gần 20 năm hoạt động, đồng thời luật hóa chiến lược phát triển dài hạn giai đoạn 2030-2035. Quan trọng hơn, Nhà nước cần trao quyền chủ động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, giảm thiểu can thiệp hành chính vào các quyết định thương mại.
Vấn đề then chốt hiện nay là nguồn lực. Dù là Tổng công ty quản lý vốn nhà nước, SCIC mới chỉ tiếp nhận khoảng 2% tổng vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Do đó, giải pháp nhanh nhất để tăng quy mô là chuyển giao phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, tập đoàn lớn về SCIC.
Song song, SCIC cần cơ chế tài chính đặc thù, cho phép giữ lại toàn bộ lợi nhuận sau thuế và nguồn thu từ thoái vốn để tái đầu tư. Quy định hiện hành chỉ cho phép trích lập quỹ đầu tư phát triển tối đa 30% lợi nhuận, gây khó khăn cho hoạt động và không đủ nguồn lực để SCIC thực hiện vai trò nhà đầu tư tài chính dẫn dắt nền kinh tế.
Trao đổi về định hướng chính sách, Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn đánh giá, sau gần 20 năm hoạt động, SCIC đã khẳng định vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước hiệu quả. Giai đoạn 2014-2025, SCIC đã tiếp nhận 120 doanh nghiệp với tổng vốn gần 25.000 tỷ đồng, thoái vốn tại 396 doanh nghiệp thu về gần 48.000 tỷ đồng (gấp 4,4 lần giá vốn). Không chỉ bảo toàn vốn, SCIC còn chủ động đầu tư hơn 55.000 tỷ đồng vào các lĩnh vực then chốt như năng lượng, hạ tầng, tài chính. Kết quả này cho thấy tính ưu việt của mô hình quản lý vốn tập trung so với mô hình hành chính trước đây.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, SCIC cần tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực. Chính phủ và Bộ Tài chính đang định hướng xây dựng SCIC trở thành SWF, tham khảo các mô hình thành công như Temasek (Singapore) hay Khazanah (Malaysia), nhằm hình thành thiết chế tài chính đủ mạnh để dẫn dắt, kết nối và thúc đẩy các thành phần kinh tế, phù hợp với Đề án kinh tế nhà nước đang được Bộ Chính trị chỉ đạo.
Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ chủ trì xây dựng nghị định về cơ chế hoạt động đặc thù cho doanh nghiệp đầu tư - kinh doanh vốn, trong đó SCIC là nòng cốt. Mục tiêu là tạo hành lang pháp lý thông thoáng, tăng cường tự chủ và minh bạch, giúp SCIC phát huy tối đa nguồn lực.
“Việc xác định rõ mô hình hoạt động - đầu tư kinh doanh vốn thuần túy, quỹ đầu tư chính phủ hay mô hình kết hợp - cũng cần được thảo luận kỹ lưỡng”, Thứ trưởng Cao Anh Tuấn cho biết.