Sáng 23/10, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội nghe tờ trình về Dự án Luật Phá sản (sửa đổi).
Ba "điểm nghẽn" còn nhiều ý kiến khác nhau
Trình bày tờ trình, ông Lê Minh Trí, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) cho biết, việc xây dựng Luật Phá sản (sửa đổi) nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định còn vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, tháo gỡ những điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản.
Luật Phá sản mới sẽ tạo hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, tuyên bố phá sản và kết thúc hoạt động kịp thời những doanh nghiệp, hợp tác xã không còn khả năng phục hồi.
Dự thảo Luật được thiết kế gồm 89 điều, 8 chương, trong đó bổ sung mới 22 điều, sửa đổi, bổ sung 62 điều, giữ nguyên 5 điều.
Ông Trí cho biết, trong quá trình xây dựng dự án Luật Phá sản (sửa đổi) có ba nội dung còn có ý kiến khác nhau.
Về tên gọi của Luật, Chánh án TANDTC cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Ủy ban Kinh tế Tài chính Quốc hội và nhiều ý kiến đồng tình với TANDTC cho rằng cần thiết phải sửa tên Luật thành Luật Phục hồi, Phá sản để đảm bảo phù hợp với việc mở rộng phạm vi quy định bổ sung chế định phục hồi là một thủ tục độc lập với thủ tục phá sản trong Dự án Luật, và phù hợp với xu thế của thế giới về tên gọi của Dự thảo Luật.
Đồng thời, tên gọi này đảm bảo đúng mục tiêu, định hướng xây dựng Luật là khuyến khích, ưu tiên phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Về chi phí phục hồi, phá sản và tạm ứng chi phí phục hồi, phá sản (Điều 20 của Dự thảo Luật), Chánh án Toà án nhân dân tối cao đánh giá, một trong những điểm nghẽn dẫn đến đình trệ vụ việc phá sản là trường hợp không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tiền, tài sản để nộp; hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản nhưng không thể bán để bảo đảm chi phí phá sản.
Để giải quyết vấn đề này, UBTVQH, cơ quan thẩm tra, Tòa án nhân dân tối cao và nhiều cơ quan nhất trí quy định này trong trường hợp trên do ngân sách nhà nước bảo đảm, và kinh phí này được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm của Tòa án. Đối với trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản thì tiền tạm ứng chi phí phá sản sẽ được hoàn trả ngay vào ngân sách nhà nước khi bán được tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Về giải quyết tranh chấp trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản (Điều 60 của Dự thảo Luật), Chánh án TANDTC Lê Minh Trí nhận định, thực tiễn giải quyết phá sản cho thấy tình trạng các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã còn phải trải qua nhiều cấp xét xử dẫn tới chậm được giải quyết dứt điểm là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết vụ việc phá sản ách tắc kéo dài.
Để giải quyết vấn đề này, Dự thảo Luật quy định giao Tòa án đang giải quyết phá sản giải quyết toàn bộ các tranh chấp mà Tòa án, Trọng tài đã đình chỉ và các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản theo trình tự, thủ tục rút gọn quy định tại Luật Phá sản mà không theo trình tự, thủ tục tố tụng quy định tại các luật tố tụng khác.
|
Đại biểu Quốc hội nghe trình bày Tờ trình dự án Luật Phá sản sáng 22/10 (Ảnh: Quốc hội). |
UBTVQH, Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội và nhiều ý kiến đồng tình với Tòa án nhân dân tối cao đối với Điều 60 Dự thảo Luật. Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định của Luật Phá sản hiện hành.
Đề nghị không tách riêng thủ tục phục hồi vì lo lạm dụng chính sách hỗ trợ
Trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật Phá sản (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, hồ sơ dự án Luật đã cơ bản đáp ứng theo yêu cầu và đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, đa số thành viên Uỷ ban tán thành với việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật theo hướng xây dựng, hoàn thiện thủ tục phục hồi là thủ tục độc lập được thực hiện trước thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, ông Mãi lưu ý, việc tách thủ tục phục hồi thành thủ tục độc lập được thực hiện trước thủ tục phá sản là chưa phù hợp với thực tiễn, không khả thi, có thể dẫn đến việc lạm dụng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong giai đoạn phục hồi, kéo dài thời gian giải quyết vụ việc phá sản. "Do đó, đề nghị quy định về thủ tục phục hồi là một khâu trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản", ông Mãi nói.
|
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi trình bày Báo cáo thẩm tra |
Liên quan đến tạm ứng chi phí phá sản, nguồn chi trả chi phí phá sản, đa số ý kiến thành viên Uỷ ban KTTC nhất trí với quy định về kinh phí chi trả chi phí phá sản như đề xuất của Cơ quan trình.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Tài chính cũng cho biết, Uỷ ban tán thành việc bổ sung quy định tại dự thảo Luật về trách nhiệm của cơ quan thuế và cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tuy nhiên, một số ý kiến trong Uỷ ban cho rằng đây là nội dung mới được bổ sung sau Phiên họp thứ 49 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, đề nghị cần tiếp tục xin ý kiến của các cơ quan liên quan chịu sự tác động trực tiếp của quy định này để bảo đảm tính khả thi khi triển khai thực hiện.
Về cơ chế hỗ trợ của Nhà nước cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong giai đoạn phục hồi, ông Phan Văn Mãi cho biết, một số ý kiến đề nghị nghiên cứu quy định tại dự thảo Luật theo hướng Nhà nước sẽ giãn, hoãn các loại thuế cho doanh nghiệp, hợp tác xã nợ thuế trong giai đoạn thực hiện phục hồi hoặc trong thời hạn nhất định kể từ ngày Tòa án công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có hiệu lực.
“Tuy nhiên, một số ý kiến khác đề nghị cân nhắc quy định tiêu chí, căn cứ, cơ sở để xác định doanh nghiệp, hợp tác xã đủ điều kiện phục hồi và trách nhiệm của các chủ thể tham gia phục hồi, tránh tình trạng lợi dụng kéo dài thời gian phục hồi, tăng thêm thiệt hại cho các bên có liên quan so với việc cho áp dụng ngay thủ tục phá sản”, ông Mãi nói.
Về bán đồng bộ tài sản, một phần hoặc toàn bộ mảng kinh doanh, hoạt động kinh doanh; bán một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp, hợp tác xã, Uỷ ban Kinh tế và Tài chính nhận thấy, đây là một chế định quan trọng được thực hiện không chỉ trong thủ tục phá sản mà còn cả trong thủ tục phục hồi nhằm đưa ra một giải pháp dự phòng tối ưu giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi doanh nghiệp, hợp tác xã không thể đưa ra phương án phục hồi, tái cấu trúc các khoản nợ.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi và hiệu lực của chế định này, đề nghị cân nhắc nghiên cứu bổ sung quy định mang tính nguyên tắc và giao cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết tại dự thảo Luật.