Đổi mới công tác giám sát là khâu trọng tâm, then chốt
Hoạt động giám sát của Quốc hội lần đầu tiên được luật hóa tại Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2003. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân quy định cụ thể nội dung, thẩm quyền, hoạt động giám sát của Quốc hội. Giám sát của Quốc hội bao gồm giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.
Hoạt động giám sát của Quốc hội hàng năm tập trung: Một là, Quốc hội giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; giám sát tối cao hoạt động và giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước…;
Hai là, Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động và văn bản pháp luật của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và giám sát văn bản quy phạm pháp luật nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh…;
Ba là, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động và giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước…;
Bốn là, Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức hoạt động giám sát của Đoàn tại địa phương; tham gia giám sát với Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tại địa phương;
Năm là, Đại biểu Quốc hội chất vấn; giám sát văn bản quy phạm pháp luật, việc thi hành pháp luật; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân...
Kể từ khi triển khai Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2003 đến nay, hoạt động giám sát của Quốc hội không ngừng được đẩy mạnh, có nhiều đổi mới, đạt được nhiều kết quả quan trọng, được cử tri và Nhân dân đánh giá cao.
Thông qua giám sát của Quốc hội đã đóng góp tích cực vào hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực nhà nước, được Nhân dân và cử tri cả nước ghi nhận.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV,Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề ra mục tiêu “Đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát là khâu trọng tâm, then chốt để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội”. Thực hiện mục tiêu đề ra, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chú trọng thực hiện toàn diện các hoạt động giám sát của Quốc hội. Cụ thể là:
Thứ nhất, công tác hoàn thiện thể chế, ban hành các nghị quyết, đề án về hoạt động giám sát được thực hiện bài bản, nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng.
Cụ thể, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành: Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH ngày 22/7/2022 về hướng dẫn việc tổ chức thực hiện hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 ngày 25/01/2024 hướng dẫn việc tổ chức hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội… Việc ban hành các Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH và Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 đã tạo sự thống nhất, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của các cơ quan Quốc hội.
Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đang giao Hội đồng dân tộc chủ trì, phối hợp các cơ quan của Quốc hội nghiên cứu, chuẩn bị Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Thứ hai, đổi mới phương thức, nội dung và quy trình tổ chức giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát chuyên đề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
Trong thời gian vừa qua, hoạt động giám sát chuyên đề tiếp tục đi vào chiều sâu, hiệu quả rõ nét, tập trung vào những vấn đề lớn, quan trọng hoặc đang được dư luận xã hội quan tâm, liên quan mật thiết đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân. Cách thức tiến hành các cuộc giám sát chuyên đề không ngừng được cải tiến, bài bản, khoa học chặt chẽ.
Thành viên đoàn giám sát được tăng cường về số lượng, huy động sự tham gia tích cực, hiệu quả của đại diện các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan có kinh nghiệm, kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực giám sát.
Kế hoạch, đề cương giám sát, nội dung giám sát được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, có nhiều đổi mới nổi bật. Việc giám sát không chỉ dựa vào các báo cáo của đối tượng chịu sự giám sát, mà còn dựa trên nhiều nguồn thông tin khác nhau, như: ý kiến của cử tri, phản ánh của báo chí, báo cáo của các cơ quan hữu quan, đặc biệt sử dụng tối đa, có hiệu quả các kết quả, kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
Giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát chuyên đề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đã góp phần tạo sự chuyển biến cả về nhận thức và hành động thực tiễn. Các nội dung của các cuộc giám sát chuyên đề đáp ứng được yêu cầu của cử tri và nhân dân cả nước.
Thứ ba, hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật cũng được đặc biệt quan tâm và ngày càng được tăng cường. Việc giám sát được các cơ quan của Quốc hội tiến hành thông qua các hình thức như: nghiên cứu, xem xét, đánh giá đối với từng văn bản về thể thức văn bản, thẩm quyền ban hành văn bản, nội dung, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản; xem xét báo cáo việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật; kết hợp hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật với hoạt động giám sát chuyên đề, tổ chức phiên giải trình và có đánh giá đối với các văn bản trong lĩnh vực được giám sát, giải trình.
Qua gần 2 năm tổ chức giám sát triển khai thực hiện Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội theo lĩnh vực phụ trách đã tổng hợp nhiều kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ chức khắc phục, làm cơ sở để tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Báo cáo tổng hợp kết quả giám sát văn bản quy phạm pháp luật năm 2022 thực hiện theo yêu cầu Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH gửi đến Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2023), để thảo luận và tiếp tục được tổng hợp báo cáo Quốc hội kết quả giám sát năm 2023 gửi Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2024).
Thứ tư, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cũng luôn chú trọng đến hoạt động giải trình. Thực hiện Nghị quyết số 969/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong Chương trình giám sát hàng năm, các cơ quan của Quốc hội đều phải có kế hoạch tổ chức phiên giải trình.
Vấn đề lựa chọn giải trình phải là những vấn đề cụ thể, có tính thời sự, bức xúc, nổi lên trong thực tiễn đời sống xã hội, vấn đề phải được làm rõ, giải quyết kịp thời để bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc vấn đề xảy ra vi phạm pháp luật hoặc có nhiều hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục…
Thứ năm, hoạt động chất vấn lựa chọn, quyết định nội dung vừa có tính thời sự cấp bách, vừa mang tính chiến lược, lâu dài, đáp ứng nguyện vọng của cử tri và nhân dân.
Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong hoạt động giám sát của Quốc hội
KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật. Một trong những nhiệm vụ của KTNN liên quan đến hoạt động giám sát của Quốc hội được quy định tại khoản 6 Điều 10 Luật KTNN năm 2015: “Tham gia với các cơ quan của Quốc hội trong hoạt động giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài chính khi có yêu cầu”.
Trong mối quan hệ giữa Quốc hội và KTNN, Điều 63 Luật KTNN năm 2015 quy định: “Tổng Kiểm toán nhà nước báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác của Kiểm toán nhà nước trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; báo cáo, giải trình, cung cấp tài liệu, nghiên cứu và trả lời các kiến nghị theo yêu cầu của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội trước Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.”
Theo quy định này, KTNN là cơ quan cung cấp thông tin thường xuyên về kết quả kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công để phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội; đồng thời tham gia hoạt động giám sát của Quốc hội khi có yêu cầu. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, KTNN ngày càng tích cực tham gia vào hoạt động giám sát của Quốc hội. Cụ thể là:
Hàng năm, KTNN xây dựng báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN làm cơ sở để Quốc hội thảo luận, phê chuẩn quyết toán NSNN của cả nước. Bên cạnh đó, qua kết quả kiểm toán, các kết luận, kiến nghị đã cung cấp nhiều thông tin, số liệu quan trọng để Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, xem xét phê chuẩn dự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương, kế hoạch đầu tư công hằng năm và trung hạn 5 năm; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước như phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia.
Đặc biệt, KTNN tham gia tích cực vào hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát chuyên đề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Thực hiện yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, KTNN đã cử Lãnh đạo KTNN, lãnh đạo các đơn vị trực thuộc tham gia vào các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát chuyên đề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; cung cấp đầy đủ, kịp thời cho các Đoàn giám sát về các kết quả kiểm toán do KTNN thực hiện.
Kế hoạch kiểm toán hàng năm của KTNN đã cơ bản bám sát chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nhiều chuyên đề giám sát tối cao của Quốc hội đã được KTNN tổ chức thực hiện thành các cuộc kiểm toán chuyên đề toàn Ngành cùng tham gia hoặc lồng ghép trong các cuộc kiểm toán. Kết quả kiểm toán của KTNN đã cung cấp nhiều thông tin chính xác, khách quan, có giá trị cho công tác giám sát của Quốc hội.
Cụ thể như: Triển khai thực hiện chuyên đề giám sát tối cao của Quốc hội năm 2022 “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2021”, nhiều kết quả các cuộc kiểm toán trong những năm gần đây đã được Đoàn giám sát nghiên cứu, sử dụng đưa vào nhận định, đánh giá báo cáo giám sát chuyên đề báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4, tháng 10/2022;
KTNN cũng đã tổ chức kiểm toán chuyên đề toàn Ngành để cung cấp thông tin, số liệu phục vụ 02 cuộc giám sát tối cao năm 2023 của Quốc hội chuyên đề “Việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19, việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng” và “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”;
Cung cấp nhiều thông tin, số liệu có giá trị cho các cuộc giám sát chuyên đề của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
Thông qua đánh giá việc tuân thủ pháp luật và chấp hành các quy định về quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của các đơn vị được kiểm toán, KTNN đã kịp thời phát hiện các sai phạm, hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực để kiến nghị chấn chỉnh, xử lý theo quy định.
KTNN cũng đã kiến nghị sửa đổi, thay thế hàng nghìn văn bản do các cơ quan có thẩm quyền ban hành, trong đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nhằm bịt lỗ hổng về cơ chế, tổ chức thực hiện quy định của Nhà nước, tránh thất thoát, lãng phí, góp phần quan trọng làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính.
Nhiều kết luận, kiến nghị của KTNN được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội sử dụng khi thực hiện giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực được phân công.
Các kết luận, kiến nghị của KTNN về hoàn thiện văn bản pháp luật đã góp phần tích cực vào quá trình hoàn thiện thể chế trong tiến trình phát triển của đất nước, như: Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng đất; cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản; công tác quản lý thu, chống thất thu thuế; công tác quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hóa…
Các kết luận, kiến nghị của KTNN cũng là nguồn thông tin quan trọng cho các cơ quan của Quốc hội khi tổ chức các phiên giải trình và đại biểu Quốc hội chất vấn tại Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Đáng chú ý là năm 2023, toàn ngành KTNN lần đầu tiên tổ chức rà soát tổng thể các kết luận, kiến nghị kiểm toán đến hết niên độ ngân sách nhà nước năm 2021 chưa thực hiện để phục vụ phiên giải trình: “Việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán nhà nước đến hết niên độ ngân sách nhà nước năm 2021”. Qua kết quả rà soát của KTNN và việc tổ chức phiên giải trình, các Bộ, ngành, địa phương đã đẩy mạnh và hoàn thành nhiều kết luận, kiến nghị kiểm toán, trong đó nhiều kiến nghị tồn tại kéo dài nhiều năm về sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật, xử lý tài chính, xử lý khác đã được tập trung xử lý và thu nộp về ngân sách nhà nước với số tiền khá lớn.
Ngoài ra, các thông tin kết luận, kiến nghị, thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN được công khai minh bạch cũng tạo điều kiện cho Nhân dân, cử tri tham gia thực hiện vai trò giám sát đối với toàn bộ hoạt động của chính quyền các cấp.
Giải pháp nâng cao hiệu quả đóng góp của KTNN đối với hoạt động giám sát của Quốc hội
Để nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội, cũng như phát huy được vai trò của KTNN trong đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, trong thời gian tới, KTNN cần tiếp tục tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong hoạt động giám sát của Quốc hội.
KTNN cần tiếp tục bám sát yêu cầu giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong xây dựng kế hoạch kiểm toán trung hạn và kế hoạch kiểm toán hằng năm để kiểm toán các chủ đề lớn gắn với việc quản lý, điều hành NSNN, những vấn đề dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, những vấn đề quan trọng của đất nước phục vụ tích cực cho các hoạt động của Quốc hội về lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Đồng thời, xây dựng kế hoạch và phương án tổ chức kiểm toán hằng năm khoa học, hiệu quả; giảm số cuộc, đầu mối kiểm toán để tập trung nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm toán, tăng số lượng các cuộc kiểm toán quyết toán NSNN hàng năm của các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương theo quy định của Luật NSNN và Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030; bố trí kế hoạch kiểm toán hợp lý để kịp thời và cung cấp đầy đủ thông tin, số liệu kiểm toán phục vụ cho các cuộc giám sát chuyên đề của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội bảo đảm chất lượng.
KTNN cũng cần thực hiện nghiêm các nhiệm vụ được giao tại các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự toán, quyết toán NSNN, tài sản công, các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án quan trọng quốc gia và Chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động kiểm toán để rút ngắn thời gian kiểm toán tại các cơ quan, đơn vị, nâng cao hiệu quả, chất lượng các báo cáo kiểm toán; tăng cường công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán, bảo đảm tính toàn diện, tập trung kiểm soát có trọng tâm, trọng điểm, tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động kiểm toán.