PGS - TS. Phạm Thế Anh: Để tăng trưởng cao, phải ổn định vĩ mô, tránh các cơn "sốt" bất động sản

0:00 / 0:00
0:00
Theo PGS - TS. Phạm Thế Anh (Đại học Kinh tế Quốc dân), muốn tăng trưởng cao giai đoạn tới, tiền đề là phải ổn định vĩ mô, đặc biệt là phải tránh được các cơn sốt giá bất động sản, giữ ổn định lạm phát, không để tiền đồng mất giá.
PGS - TS. Phạm Thế Anh (Đại học Kinh tế Quốc dân). Ảnh: Hồ Long PGS - TS. Phạm Thế Anh (Đại học Kinh tế Quốc dân). Ảnh: Hồ Long

Muốn tăng trưởng cao phải "cắt" được các cơn "sốt đất"

Phát biểu tại Tọa đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội do Thường trực Ủy ban Kinh tế và tài chính tổ chức sáng nay (5/9), PGS - TS. Phạm Thế Anh cho rằng, việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao giai đoạn tới (tăng trưởng 2 con số từ năm sau) thì điều kiện tiên quyết là phải giữ được ổn định vĩ mô. Bởi nếu vì tăng trưởng cao mà đánh mất ổn định vĩ mô, trong dài hạn sẽ không thể đạt được cả mục tiêu tăng trưởng cao.

Theo chuyên gia này, ổn định kinh tế vĩ mô có thể được lượng hóa bằng bốn chỉ tiêu cụ thể.

Thứ nhất, phải giữ lạm phát ở mức thấp, không vượt quá 4%, lý tưởng nhất là 2-4%. Mức lạm phát này vừa đảm bảo kích thích doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo thu nhập thực của người dân, bởi “lạm phát là thứ tước đoạt thu nhập người lao động và người nghèo nhanh nhất”.

Thứ hai, phải tránh được các cơn sốt giá bất động sản, đây là yếu tố làm tăng chênh lệch giàu nghèo nhanh nhất, gây ra nhiều hệ lụy kinh tế, xã hội. Thực tế, trong nhiều thập kỷ qua, cứ vài ba năm lại xảy ra một đợt “sốt” bất động sản và hiện giá bất động sản đã vượt xa khả năng thanh toán của người dân, kể cả người có thu nhập cao. Theo PGS.TS Phạm Thế Anh, kể cả người thu nhập 50-70 triệu đồng/tháng hiện nay cũng khó mua nhà ở các thành phố lớn. Với thu nhập bình quân đầu người khoảng 5.000 USD/năm, người lao động tích cóp 30 năm cũng khó thực hiện được giấc mơ sở hữu nhà ở tại các thành phố lớn.

Thứ ba, phải ổn định tỷ giá hối đoái. Với nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu và vốn đầu tư nước ngoài như Việt Nam, giữ ổn định tỷ giá là hết sức quan trọng. VND có thể mất giá nhưng chỉ ở trong giới hạn cho phép, nếu VND mất giá mỗi năm 5-10% là dấu hiệu bất ổn kinh tế vĩ mô.

Thứ tư, phải đảm bảo tính bền vững của nợ công. Hiện chỉ tiêu nợ công ở Việt Nam khá thấp (khoảng 34% -35% GDP) song không thể coi thường, bởi chỉ cần thực hiện một dự án như đường sắt cao tốc Bắc Nam thì tỷ lệ này nợ công sẽ tăng mạnh trở lại. Chưa kể, còn loạt dự án đầu tư công lớn khác sắp được triển khai, đòi hỏi việc huy động và sử dụng nguồn lực phải tính toán để đảm bảo sự bền vững của nợ công, giữ ổn định hệ thống tài chính.

Dư địa để chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng không còn nhiều

Theo PGS - TS. Phạm Thế Anh, về nguyên tắc, không nên sử chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt là tăng trưởng liên tục trong dài hạn.

“Nếu sử dụng chính sách tiền tệ liên tục để kích thích tăng trưởng - ví dụ như mỗi năm tăng tín dụng 15-20% liên tục trong thời gian dài - chắc chắn sẽ gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô. Chức năng chính của chính sách tiền tệ là bình ổn kinh tế vĩ mô, nới lỏng tiền tệ khi nền kinh tế suy thoái và thắt chặt khi nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Chính sách tiền tệ là công cụ để các nước giữ ổn định nền kinh tế, không phải công cụ để thúc đẩy tăng trưởng. Chức năng thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn thuộc về chính sách tài khóa”, ông Phạm Thế Anh nhấn mạnh.

Theo chuyên gia này, dư địa sử dụng chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng tại Việt Nam gần như không còn.

Thứ nhất, cung tiền/GDP và tỉ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam hiện nay lần lượt ở mức 160% và 140%, là con số rất cao so với tất cả các nước trên thế giới, trừ những nước rơi vào lạm phát phi mã. Con số trên cho thấy nền kinh tế đang phụ thuộc quá lớn vào vốn của hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, chênh lệch giữa lãi suất và lạm phát gần như bằng 0 (hiện lãi suất huy động đang quanh mức 4-5%/năm trong khi lạm phát mục tiêu năm 2025 là 4,5%). Lãi suất thực không có khiến hệ thống ngân hàng không huy động được vốn dài hạn, dẫn tới ngân hàng mất cân đối kỳ hạn. Thực tế, hiện các ngân hàng hầu hết chỉ huy động được vốn ngắn hạn trên thị trường dân cư, riêng với vốn dài hạn, các ngân hàng phải huy động qua kênh trái phiếu. Soi chiếu vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể thấy: bên phát hành chủ yếu là ngân hàng và doanh nghiệp bất động sản.

Thứ ba, chênh lệch giữa lãi suất trong nước và lãi suất USD rất thấp, nhiều thời điểm lãi suất VND thậm chí còn thấp hơn USD. Nếu tiếp tục mở rộng tiền tệ, ép lãi suất VND ở mức thấp, USD sẽ chảy ra ngoài, VND mất giá, về lâu dài sẽ ảnh hưởng khả năng cạnh tranh quốc gia, khả năng thu hút vốn FDI và thúc đẩy thương mại quốc tế.

Thứ tư, dự trữ ngoại hối sụt giảm cũng thu hẹp dư địa sử dụng chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng. Những năm trước, dự trữ ngoại hối đã vượt 100 tỷ USD nhưng hiện nay đã giảm về khoảng 70 tỷ USD, theo dự đoán của PGS - TS. Phạm Thế Anh.

Trong bối cảnh này, dù ủng hộ việc Ngân hàng Nhà nước bỏ room tín dụng song chuyên gia kiến nghị để bỏ room, Ngân hàng Nhà nước phải hoàn thiện bộ chỉ tiêu an toàn hệ thống (dựa trên Basel II, Basel III...) và phải xây dựng được hệ thống giám sát hiện đại, cập nhật.

Cuối cùng, chuyên gia khuyến nghị chính sách tiền tệ phải tăng được tính độc lập, mục đích là để giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, Chính phủ có thể mở rộng chính sách tài khóa để thúc đẩy tăng trưởng, nhưng giữ nhịp ổn định kinh tế vĩ mô phải dành cho chính sách tiền tệ.

“Chính sách tiền tệ phải có một sự độc lập nhất định. Quốc hội có thể giao chỉ tiêu, giao mục tiêu nhưng Ngân hàng Nhà nước phải được toàn quyền sử dụng các công cụ chính sách của mình để đạt mục tiêu đó”, PGS - TS. Phạm Thế Anh đề nghị.

Thùy Liên
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục