Nỗi lo phát sinh thêm thuế giá trị gia tăng

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) đề xuất thu hẹp phạm vi áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) 0% với dịch vụ xuất khẩu đang khiến nhiều doanh nghiệp lo ngại.
Chính sách thuế cần đảm bảo hài hòa từ cả góc độ quản lý thuế và chi phí kinh doanh của doanh nghiệp Chính sách thuế cần đảm bảo hài hòa từ cả góc độ quản lý thuế và chi phí kinh doanh của doanh nghiệp

Đề xuất đột phá nhưng chưa phù hợp

Ngày 15/3/2024, Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội đã phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức Hội thảo lấy ý kiến về dự án Luật Thuế GTGT (sửa đổi). Theo đó, dự thảo Luật đưa ra nhiều nội dung sửa đổi phù hợp hơn với thực tiễn và giải quyết các vướng mắc như phạm vi đối tượng không chịu thuế, kê khai khấu trừ thuế, đồng thời có nội dung đề xuất mang tính đột phá như bỏ áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% đối với nhiều dịch vụ xuất khẩu.

Luật Thuế GTGT được thông qua năm 2008, có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009 và được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2013, 2014, 2016. Theo đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp, Luật đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, với tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và xu hướng phát triển thời gian tới, chính sách thuế GTGT đã phát sinh một số hạn chế, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện để phát huy hơn nữa vai trò của loại thuế này.

Qua thực tiễn hỗ trợ các doanh nghiệp tuân thủ quy định thuế và hải quan, Deloitte Việt Nam nhận thấy, quy định hiện hành đang tồn tại một số vướng mắc phổ biến cần được tháo gỡ, đặc biệt là chính sách thuế GTGT đối với khu phi thuế quan, doanh nghiệp chế xuất và hoạt động xuất khẩu.

Dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi) đưa ra thảo luận tại hội thảo ngày 15/3/2024 đã đề xuất các nội dung sửa đổi sát với vướng mắc thực tiễn, nhưng cũng khiến nhiều doanh nghiệp băn khoăn, lo lắng nếu những đề xuất sửa đổi đó được Quốc hội thông qua.

Ví dụ, về đề xuất thu hẹp phạm vi áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% với dịch vụ xuất khẩu, mặc dù thực tiễn áp dụng thuế GTGT 0% cho dịch vụ xuất khẩu có thể còn nhiều vướng mắc, nhưng Deloitte Việt Nam cho rằng, Quốc hội và Chính phủ nên có đánh giá tác động tổng thể và tham khảo kinh nghiệm cũng như thông lệ quốc tế trước khi quyết định vấn đề này.

Bởi lẽ, dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi) đã giới hạn phạm vi và chỉ liệt kê một số loại hình dịch vụ xuất khẩu (hưởng thuế GTGT 0%) là dịch vụ cung cấp cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, bao gồm: dịch vụ cho thuê phương tiện vận tải được sử dụng ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam; dịch vụ vận tải quốc tế; dịch vụ của ngành hàng không, hàng hải cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế.

Việc giới hạn phạm vi nêu trên sẽ làm thay đổi chính sách quản lý thuế GTGT và hải quan đối với doanh nghiệp nội địa cung cấp dịch vụ cho nước ngoài (bao gồm trường hợp dịch vụ gắn với hàng hóa xuất khẩu) và cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất là khu phi thuế quan. Theo đó, thuế suất thuế GTGT cho các trường hợp này tăng từ 0% đối với dịch vụ xuất khẩu thành 5%/10% như dịch vụ kinh doanh thông thường.

Doanh nghiệp nội địa phát sinh thêm thuế GTGT phải nộp đối với hoạt động cung ứng dịch vụ ra nước ngoài và/hoặc cho doanh nghiệp chế xuất, đồng thời doanh nghiệp chế xuất phải ghi nhận thuế GTGT đầu vào phát sinh vào chi phí trong kỳ, làm tăng giá thành sản phẩm của doanh nghiệp và giảm sức cạnh tranh của cả chuỗi cung ứng của Việt Nam, vì sản phẩm cuối cùng của doanh nghiệp chế xuất thường được xuất khẩu ra nước ngoài.

Ngoài ra, với thực tiễn đã áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% cho dịch vụ xuất khẩu nhiều năm nay, việc thay đổi như dự thảo Luật có thể ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của môi trường đầu tư và tác động trực tiếp đến chi phí và việc vận hành của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong điều kiện kinh tế được dự đoán có không ít khó khăn.

Do đó, Deloitte Việt Nam kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá kỹ tác động kinh tế của việc thu hẹp đối tượng dịch vụ được xác định là dịch vụ xuất khẩu như dự thảo Luật để đảm bảo chính sách thuế GTGT được sửa đổi một cách toàn diện, nhưng không gây xáo trộn tình hình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp.

Một số vướng mắc hiện hữu

Chính sách thuế giá trị gia tăng cần được sửa đổi một cách toàn diện, nhưng không gây xáo trộn tình hình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp.

Luật Thuế GTGT hiện hành và các văn bản hướng dẫn quy định điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu bao gồm: có hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu; hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hóa, cung ứng dịch vụ; hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ; chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu.

Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào các chứng từ nêu trên thì nhiều trường hợp cơ quan thuế cho rằng chưa đủ cơ sở để xác định hàng hóa đó có thực sự được xuất khẩu ra nước ngoài hay không. Thực tế, trong quá trình kiểm tra hoàn thuế GTGT đã phát hiện có các trường hợp gian lận như khai khống hàng hóa xuất khẩu, người mua tại nước ngoài không có thật… Nhiều ý kiến cho rằng, trách nhiệm xác định hàng hóa có thực xuất khẩu ra nước ngoài thuộc về cơ quan hải quan, chứ không phải trách nhiệm của cơ quan thuế nội địa hoặc bên xuất khẩu.

Bên cạnh đó, Luật Thuế GTGT chưa có quy định rõ ràng về việc xác định dịch vụ xuất khẩu. Do dịch vụ có tính vô hình, nên rất khó xác định một số loại dịch vụ được tiêu dùng tại Việt Nam hay ở nước ngoài, gây vướng mắc, tranh cãi cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế trong việc đánh giá, chứng minh dịch vụ như thế nào được xem là “tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam”.

Trong quá trình thực hiện, chúng tôi cũng quan sát nhiều trường hợp doanh nghiệp đã xuất hóa đơn cung cấp dịch vụ cho khách hàng với thuế suất 0% (do xác định là tiêu dùng ngoài Việt Nam), sau đó bị cơ quan kiểm toán, cơ quan thuế cho rằng, đây là dịch vụ tiêu dùng tại Việt Nam và thực hiện truy thu thuế GTGT 10%. Việc truy thu này gây khó khăn cho bên cung cấp dịch vụ do phải nộp thêm thuế mà không đòi được bên mua dịch vụ vì hợp đồng đã ký và việc thanh toán đã kết thúc. Mặt khác, trên thị trường đang phát triển nhiều dịch vụ cung ứng cho tổ chức, cá nhân nước ngoài gắn với hàng hoá được gia công sản xuất tại Việt Nam để xuất khẩu, nhưng thực tế không xác định được chính xác hàng hóa đó là tiêu dùng ở trong nước hay ở nước ngoài tại thời điểm cung cấp dịch vụ, nếu xác định thì rất phức tạp, tăng chi phí quản lý như dịch vụ phân loại hàng hóa, giám sát chất lượng hàng hóa để xuất khẩu, kinh doanh tài sản số, dịch vụ số...

Từ góc độ quản lý, quy định hiện hành chưa thực sự cung cấp cơ sở cần thiết và phù hợp để thực hiện chính sách thuế GTGT với dịch vụ xuất khẩu (ví dụ: hồ sơ chứng từ, thời điểm áp dụng). Vì vậy, cơ quan thuế và doanh nghiệp gặp vướng mắc trong quá trình quản lý cũng như hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện áp dụng thuế GTGT 0%, doanh nghiệp cũng gặp khó khăn khi thực hiện hoặc thêm nghĩa vụ chứng minh, giải trình và trong một số trường hợp phát sinh thêm chi phí thuế.

Các vướng mắc hiện nay cần được xem xét thận trọng để điều chỉnh quy định phù hợp tại dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi), đảm bảo hài hòa từ cả góc độ quản lý thuế và chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.

(*)Phó tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn Thuế, Deloitte Việt Nam

(**)Phó giám đốc Dịch vụ Tư vấn Thuế, Deloitte Việt Nam

Bùi Ngọc Tuấn (*) - Nguyễn Hải Vân (**)

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục