Sở hữu chéo giảm, nhưng chưa thể yên tâm
Theo Ngân hàng Nhà nước, hiện nay, sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định và sở hữu chéo trong hệ thống tổ chức tín dụng đã giảm. Tình trạng cổ đông và nhóm cổ đông lớn thao túng, chi phối ngân hàng cũng được hạn chế.
Hiện tại, trường hợp cổ đông và người có liên quan sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định chủ yếu chỉ còn tại các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước thuộc sự quản lý của các bộ, ngành và các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong việc yêu cầu các cổ đông này thực hiện thoái vốn.
![]() |
Dù Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 đã bổ sung nhiều quy định siết chặt sở hữu, đầu tư chéo và kiểm soát tình trạng thao túng ngân hàng, song thực tế cho thấy, việc phát hiện các trường hợp che giấu, nhờ người khác đứng tên hộ cổ phần vẫn là thách thức lớn đối với cơ quan quản lý.
“Điều này dẫn tới nguy cơ hoạt động của tổ chức tín dụng thiếu công khai, minh bạch. Đồng thời, việc này chỉ có thể được phát hiện và nhận diện thông qua công tác điều tra, xác minh của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật”, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định.
Ngoài ra, việc xác định mối liên quan giữa các doanh nghiệp (đơn cử, các doanh nghiệp chằng chịt trong hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát - PV), theo Ngân hàng Nhà nước, là không dễ, nhất là với các doanh nghiệp chưa phải là công ty đại chúng.
Để giám sát sở hữu chéo hiệu quả hơn trong thời gian tới, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, sẽ tiếp tục thực hiện giám sát an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng nhằm ngăn ngừa rủi ro. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh thanh tra các nội dung về tỷ lệ sở hữu cổ phần; mua bán, chuyển nhượng cổ phần của ngân hàng; cấp tín dụng đối với khách hàng/nhóm khách hàng lớn (cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp...) nhằm phát hiện, chỉ đạo xử lý, khắc phục các tồn tại, vi phạm trong hoạt động, nhất là các sai phạm về hoạt động cấp tín dụng, đầu tư, góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng đề nghị các bộ, ban, ngành, đơn vị chủ quản của doanh nghiệp cần quan tâm chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư, góp vốn, mua cổ phần tại các tổ chức tín dụng tuân thủ quy định; sử dụng nguồn vốn vay, đặc biệt vốn vay từ các tổ chức tín dụng đúng mục đích, hiệu quả; đảm bảo an toàn và trả nợ đúng hạn cho các tổ chức tín dụng.
Về mặt pháp lý, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục rà soát, nghiên cứu, tham mưu sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật nếu cần thiết, nhằm hoàn thiện khung khổ pháp lý về sở hữu cổ phần theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng.
Tái cơ cấu ngân hàng yếu kém có tiến triển
Đối với xử lý nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến cuối tháng 8/2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng (không bao gồm 5 ngân hàng MBV30, Dầu khí Toàn cầu, NCB Neo31, Vikki Bank32, Sài Gòn) ở mức 1,71%.
Theo Phó thống đốc Phạm Quang Dũng, việc xử lý các ngân hàng bị chuyển giao bắt buộc đạt được nhiều kết quả sau 1 năm thực hiện. Đến nay, quy mô tổng tài sản, vốn huy động, dư nợ đều tăng trưởng cao. Nợ xấu từng bước được xử lý; một số ngân hàng đã có lãi hoặc giảm lỗ so với cùng kỳ năm 2024.
Riêng với SCB, Ngân hàng Nhà nước đã có Tờ trình số 02-TTr/ĐUNHNN ngày 15/9/2025, báo cáo Ban Thường vụ Đảng ủy Chính phủ để báo cáo cấp có thẩm quyền về phương án cơ cấu lại SCB.
Đáng chú ý, để nâng cao chuẩn mực an toàn hoạt động toàn hệ thống, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 14/2025/TT-NHNN về tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Thông tư 14). Ngân hàng Nhà nước cũng nghiên cứu bổ sung các hướng dẫn mới nhất của Ủy ban Basel tại chuẩn mực Basel III. Đây là những bước đi chiến lược nhằm nâng cao chất lượng quản lý rủi ro của hệ thống ngân hàng Việt, hướng tới hệ thống ngân hàng an toàn, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo đánh giá của FiinRatings, từ cuối năm 2025, các yêu cầu về vốn theo chuẩn Basel III và việc gỡ bỏ “room” tín dụng sẽ tạo ra sự phân hóa ngày càng rõ giữa các ngân hàng. Các ngân hàng có quy mô và năng lực vốn lớn sẽ mở rộng thị phần, trong khi các ngân hàng nhỏ cần điều tiết tăng trưởng để cân bằng vốn, lợi nhuận và chất lượng tài sản.
Hiện tại, nguồn vốn của các ngân hàng tạm thời được củng cố nhờ phát hành trái phiếu cấp 2, nhưng áp lực lên vốn lõi gia tăng. Thông tư 14 có hiệu lực từ ngày 15/9 đưa ra quy định chi tiết về vốn lõi cấp 1, vốn cấp 1 và bộ đệm an toàn vốn, qua đó siết chặt yêu cầu về nguồn vốn tự có và lợi nhuận giữ lại. Điều này khiến chỉ tiêu về tỷ lệ an toàn vốn đơn lẻ không còn phản ánh đầy đủ năng lực vốn của ngân hàng.
Để cân bằng giữa tăng trưởng tín dụng và ràng buộc về vốn, chuyên gia FiinRatings dự báo, các nhóm ngân hàng sẽ có chiến lược khác nhau. Theo đó, những ngân hàng quốc doanh dự kiến tập trung tăng vốn lõi thông qua giữ lại lợi nhuận và duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng vừa phải; nhóm ngân hàng thương mại cổ phần lớn kết hợp giữa giữ lại lợi nhuận và phát hành trái phiếu cấp hai linh hoạt, nhằm hỗ trợ tăng trưởng có chọn lọc. Riêng các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ có thể phải lựa chọn giữa phát hành thêm cổ phần mới hoặc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng để đảm bảo an toàn vốn.
FiinRatings cũng cảnh báo, tỷ lệ bao phủ nợ xấu đã giảm nhẹ và vẫn thấp hơn mức đỉnh năm 2022, phản ánh việc các ngân hàng đang dựa nhiều hơn vào hoạt động xóa nợ và thu hồi nợ, thay vì gia tăng trích lập dự phòng. Khi các chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ dần hết hiệu lực, một số khoản vay có thể chuyển thành nợ cần chú ý (SML) hoặc nợ xấu (NPL). Rủi ro này tập trung cao hơn ở các ngân hàng TMCP quy mô nhỏ, với bộ đệm vốn mỏng hơn.
“Các chỉ tiêu về vốn và khả năng sinh lời nhìn chung đều suy giảm trên hầu hết nhóm ngân hàng. Ngay cả ở những ngân hàng có năng lực tín dụng cao, tỷ lệ bao phủ nợ xấu và tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng cũng giảm. Điều này cho thấy, bộ đệm chống chịu rủi ro tín dụng đang thu hẹp trước áp lực chất lượng tài sản”, FiinRatings cảnh báo.