
Những điều kiện không hợp thời
“Không còn phù hợp”, “không cần quản lý bằng điều kiện”… là những nhận định ngắn gọn nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa mà Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã chọn để lý giải cho kiến nghị bãi bỏ 16 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện vừa gửi Bộ Tài chính.
Thậm chí, với ngành, nghề “cho thuê lại lao động”, VCCI còn đề xuất đưa vào nhóm ngành cần khuyến khích, chứ không chỉ là bỏ ra khỏi danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
Theo quy định hiện hành, đây là hoạt động người lao động giao kết hợp đồng lao động với một người sử dụng lao động là doanh nghiệp cho thuê lại lao động, sau đó người lao động được chuyển sang làm việc và chịu sự điều hành của người sử dụng lao động khác, mà vẫn duy trì quan hệ lao động với người sử dụng lao động đã giao kết hợp đồng lao động.
Khi đưa ngành, nghề này vào danh mục có điều kiện, cơ quan quản lý nhà nước, khi đó là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội lo ngại những tác động bất lợi tới quyền lợi của người lao động. Song VCCI cho rằng, hợp đồng lao động đã ràng buộc các điều kiện về lao động theo quy định. Nếu người lao động làm việc tại doanh nghiệp thuê lại lao động không được đảm bảo quyền lợi, có thể khởi kiện doanh nghiệp cho thuê lại lao động để đảm bảo quyền lợi cho mình. Như vậy, các quy định tại pháp luật lao động đã bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong trường hợp này. Hơn thế, dưới góc độ của thị trường, dịch vụ cho thuê lại lao động sẽ giải quyết những bài toán về thiếu hụt nguồn cung lao động và có sự điều phối hợp lý nguồn lao động giữa các doanh nghiệp.
Tương tự, VCCI đề nghị xác định dịch vụ tư vấn việc làm là ngành kinh doanh thông thường, quản lý bằng các biện pháp quản lý chung, như theo pháp luật về đăng ký kinh doanh, đầu tư…
Về bản chất, VCCI phân tích, dịch vụ việc làm là dịch vụ môi giới việc làm, một quan hệ “tư” thuần túy giữa người cung ứng dịch vụ việc làm - người lao động, người cung ứng dịch vụ việc làm - người sử dụng lao động. Hoạt động này sẽ giúp cho người dân tìm kiếm được việc làm, giảm tình trạng thất nghiệp, giúp cơ sở sản xuất kinh doanh tìm kiếm được nhân lực phục vụ, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Tất nhiên, nếu nhìn góc độ tiêu cực, trường hợp cung ứng dịch vụ cho người sử dụng lao động có hoạt động kinh doanh ngầm, trái pháp luật, sử dụng lao động không tuân thủ các quy định của pháp luật lao động…, có thể khiến người lao động bị thiệt hại.
Mặc dù vậy, theo VCCI, trong những trường hợp này, nguyên nhân chính là ở cơ sở sử dụng lao động chứ không phải ở đơn vị cung ứng dịch vụ việc làm. Hơn thế nữa, nếu không có bên cung ứng dịch vụ việc làm, người sử dụng lao động, người lao động trong những trường hợp này vẫn có nhiều kênh khác để tìm đến được nhau.
Như vậy, trong tổng thể, có thể thấy mức độ tác động của hoạt động này tới các lợi ích công cộng có thể có nhưng không đến mức buộc Nhà nước phải kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh. Đó là chưa kể tới những lợi ích mà dịch vụ này mang lại cho thị trường lao động…
Rào cản mang tên “điều kiện kinh doanh”
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Hồ Sỹ Hùng, Chính phủ đã có Báo cáo số 618/BC-CP trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về danh mục các luật, nghị quyết của Quốc hội cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới trong năm 2025, trong đó có dự án Luật Đầu tư (thay thế), dự kiến trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ Mười (tháng 10/2025).
Bộ Tài chính cũng đã xây dựng hồ sơ đề nghị chính sách và gửi lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương, đối tượng chịu tác động của Luật.
Nhiều ý kiến của VCCI đã có mặt trong phần đánh giá kết quả thực hiện các quy định về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện mà Bộ Tài chính đang thực hiện khi tổng kết thi hành Luật Đầu tư. Nhưng nguyên nhân của những ngành nghề kinh doanh có điều kiện cần xem xét, bãi bỏ còn nhiều hơn. Đáng nói là không ít ngành, nghề thuộc Danh mục chưa thật sự đáp ứng tiêu chí quy định tại Luật Đầu tư về sự cần thiết phải quy định là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Đơn cử, Bộ Tài chính phân tích, việc xác định “kinh doanh dịch vụ kế toán” là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện dường như là chưa hợp lý do trước thời điểm năm 2014, khi Luật Kế toán 2014 được ban hành, thì kinh doanh dịch vụ kế toán được xem là một ngành, nghề kinh doanh thông thường. Trong suốt thời gian trước đó, hoạt động này cũng không được ghi nhận bất kỳ rủi ro nào tác động bất lợi đáng kể đến các lợi ích công cộng. Điều này cho thấy thực tiễn đã chứng minh hoạt động kinh doanh này không cần thiết phải kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh.
Kinh doanh dịch vụ làm thủ tục hải quan cũng không tác động tới các lợi ích công cộng đến mức buộc phải kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh. Đại lý làm thủ tục hải quan nếu phát sinh rủi ro chỉ ảnh hưởng tới lợi ích riêng của chủ thể thuê làm thủ tục hải quan (vốn là mối quan hệ tư, hoàn toàn có thể được giải quyết theo pháp luật tư), mà hầu như không tạo ra ảnh hưởng đáng kể nào tới lợi ích công cộng của xã hội hay Nhà nước nói chung…
Điều quan trọng là, cơ chế giám sát thực hiện nhiệm vụ cải cách hệ thống quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh chưa phù hợp, kém hiệu quả.
Cần đợt rà soát tổng thể
So với danh mục 267 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được ban hành lần đầu vào năm 2014, theo Luật Đầu tư, số lượng ngành, nghề kinh doanh có điều kiện hiện còn 237 ngành. Cùng với đó, các yêu cầu điều kiện về phù hợp với quy hoạch hoặc có phương án, kế hoạch kinh doanh cũng được cắt giảm đáng kể; các yêu cầu về vốn được bãi bỏ ở hầu hết các lĩnh vực…
Tuy nhiên, tại Hội nghị Tham vấn chính sách với các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các bộ, ngành về dự án Luật Đầu tư (thay thế) vừa diễn ra, yêu cầu hoàn thiện quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tiếp tục được đặt ra.
Một phần, việc duy trì danh mục quá nhiều ngành, nghề có điều kiện đang tạo ra rào cản pháp lý, làm tăng chi phí tuân thủ, giảm hiệu quả môi trường đầu tư kinh doanh trong nước và năng lực cạnh tranh quốc tế.
Song mặt khác, theo ông Hoàng Mạnh Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Tài chính) một số ngành nghề mới, tiềm ẩn rủi ro phức tạp về an ninh, trật tự, sức khoẻ cộng đồng lại không được quy định là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện khiến hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước gặp khó khăn, chủ cơ sở kinh doanh dễ lợi dụng kẽ hở để vi phạm pháp luật. Các chuyên gia đang nhắc tới nhiều ngành như kinh doanh nền tảng chia sẻ dữ liệu cá nhân, kinh doanh công nghệ deepfake…
“Đây sẽ là đợt rà soát tổng thể ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, trên cơ sở đó hoàn thiện các quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều kiện đầu tư kinh doanh, đồng thời cắt giảm một số ngành, nghề không cần thiết, bất hợp lý nhằm tiếp tục bảo đảm thực hiện đầy đủ, nhất quán quyền tự do kinh doanh của người dân, doanh nghiệp trong những ngành, nghề mà Luật không cấm hoặc quy định phải có điều kiện”, ông Phương nhấn mạnh.
Phải thẳng thắn thừa nhận, thời gian qua, dù những nỗ lực và quyết tâm xóa bỏ các điều kiện đầu tư kinh doanh bất hợp lý, gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh từ các lãnh đạo cao nhất của đất nước rất lớn, song việc thực hiện nhiệm vụ chưa thật sự đạt được mục tiêu. Thậm chí, Bộ Tài chính phát hiện, số lượng ngành nghề kinh doanh có điều kiện trên thực tế lớn hơn số lượng theo danh mục Phụ lục IV, Luật Đầu tư.
Đặc biệt, danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện ban hành kèm theo Luật Đầu tư năm năm 2020 phần lớn áp dụng cơ chế tiền kiểm, nghĩa là phải xin cấp giấy phép mới được kinh doanh. Trên thực tế, có những ngành nghề không cần thiết phải kiểm soát theo cơ chế tiền kiểm như ngành nghề: Kinh doanh dịch vụ đóng mới, hoán cải, sửa chữa, phục hồi phương tiện thủy nội địa, sản xuất mũ bảo hiểm do tiêu chuẩn chất lượng đã được quản lý bởi quy chuẩn kỹ thuật, không cần điều kiện đầu tư...
Ngoài ra, nhiều ngành nghề có tình trạng “cấp phép hình thức nhưng hoạt động không thực chất” nên cơ chế công bố điều kiện - hậu kiểm sẽ đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước hơn là kiểm soát bằng giấy phép. Nhiều đề xuất cho rằng, nên loại bỏ các ngành nghề kinh doanh có thể kiểm soát theo cơ chế hậu kiểm (như các ngành nghề có thể kiểm soát bằng quy chuẩn kỹ thuật, các ngành nghề ít rủi ro, ảnh hưởng đến lợi ích công cộng…).
Một số điều kiện đầu tư kinh doanh đặt ra yêu cầu quá mức cần thiết để phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước, tạo ra rào cản gia nhập thị trường, hạn chế cạnh tranh, như yêu cầu phải sở hữu phương tiện, máy móc, thiết bị; quy định thời hạn Giấy phép kinh doanh quá ngắn; yêu cầu nhân viên quản lý hoặc vận hành của doanh nghiệp phải được đào tạo, tập huấn do cơ quan nhà nước tổ chức và thu tiền…
Tất cả những điều này khi đã được nhận diện rõ, chắc chắn sẽ có giải pháp gỡ bỏ, từ đó thúc đẩy nỗ lực gia nhập thị trường của doanh nghiệp.