Hàng loạt doanh nghiệp có nguy cơ rời cuộc chơi trái phiếu, lãi suất nóng lên
Dự thảo lần 5, Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 153/2020/NĐ-CP mới được công bố cho thấy, điều kiện phát hành, mục đích phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) sắp bị siết rất chặt. Nhiều doanh nghiệp lo ngại, các quy định mới này sẽ bóp nghẹt thị trường, buộc nhiều doanh nghiệp phải dừng cuộc chơi trái phiếu, thậm chí có thể gây rủi ro vỡ nợ dây chuyền nếu dòng vốn bị phanh đột ngột.
Cụ thể, theo dự thảo mới nhất, mục đích phát hành TPDN riêng lẻ bị thu hẹp. Theo đó, doanh nghiệp không được phát hành trái phiếu để đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp, mua trái phiếu của doanh nghiệp khác, hoặc cho doanh nghiệp khác vay vốn. Lý do Bộ Tài chính đưa ra quy định này là để hạn chế chuyển vốn giữa các doanh nghiệp.
Ngoài ra, dự thảo Nghị định cũng đưa ra yêu cầu khắt khe hơn điều kiện tài chính với nhà phát hành như: tổng dư nợ vay trái phiếu từ tất cả các hình thức vay trái phiếu tại thời điểm phát hành (bao gồm cả khối lượng dự kiến phát hành) không được vượt quá 3 lần vốn chủ sở hữu theo báo cáo tài chính quý gần nhất; có kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành có lãi và không có lỗ lũy kế theo báo cáo tài chính được kiểm toán về tài sản đảm bảo với trái phiếu…
Đặc biệt, Dự thảo quy định, nhà đầu tư chuyên nghiệp là cá nhân chỉ được mua trái phiếu riêng lẻ do công ty đại chúng phát hành và phải có tài sản đảm bảo hoặc bảo lãnh thanh toán.
Các quy định này được doanh nghiệp nhận định là sẽ bóp nghẹt đáng kể thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, cả phía cung lẫn phía cầu.
Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SBLAW cho rằng, Nghị định 153 trước đây quá thoáng, còn dự thảo sửa đổi thì lại thắt quá chặt.
“Quy định doanh nghiệp muốn phát hành riêng lẻ thì năm liền trước không được lỗ, nó gần giống việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Điều kiện quay ngoắt 180 độ như thế thì khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt một số doanh nghiệp khởi nghiệp, làm sao họ có cái lãi được ngay, nhiều doanh nghiệp lỗ 5-10 năm và lỗ theo lộ trình. Vì vậy, điều kiện trên sẽ loại rất nhiều doanh nghiệp start-up hay dự án tốt”, ông Hà nói.
Quy định không được phát hành TPDN để góp vốn, mua cổ phần cũng được dự báo sẽ gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình tập đoàn, có nhiều công ty con như BRG, TNR, Vingroup, Novaland… Lý do là, theo quy định này, công ty mẹ không thể phát hành TPDN để tài trợ cho công ty con thực hiện dự án. Trong khi đó, công ty con mới thành lập (vì mục tiêu phát triển dự án) khó đáp ứng được điều kiện phát hành TPDN riêng lẻ. Chặn cửa huy động vốn qua kênh TPDN cũng sẽ khiến các doanh nghiệp ngại ngần đầu tư vào lĩnh vực mới.
Với nhà đầu tư, dự thảo quy định thắt chặt điều kiện nhà đầu tư chuyên nghiệp là hết sức tích cực, song việc đưa ra quy định về nhà đầu tư cá nhân chỉ được mua TPDN của doanh nghiệp đại chúng hoặc có bảo lãnh thanh toán sẽ làm suy giảm thanh khoản thị trường, thắt chặt sức mua, khiến doanh nghiệp khó huy động vốn, có thể gây ra rủi ro lớn về vỡ nợ dây chuyền trên thị trường.
Hơn nữa, không có yếu tố nào đảm bảo công ty đại chúng có khả năng trả nợ tốt hơn công ty chưa đại chúng. Tài sản đảm bảo cũng không phải là cây đũa thần. “Bom nợ” Tân Hoàng Minh cho thấy, việc xử lý tài sản đảm bảo rất khó khăn, phức tạp. Bên cạnh đó, nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán cũng chỉ có các ngân hàng thực hiện được. Thực tế, rất ít khả năng các ngân hàng thương mại chấp nhận rủi ro này để bảo lãnh thanh toán cho các trái phiếu doanh nghiệp.
Thông cảm với việc đưa ra các quy định siết chặt TPDN của Bộ Tài chính, song các chuyên gia, doanh nghiệp cho rằng, Bộ Tài chính vẫn chưa tìm được điểm trung hòa để vừa bảo vệ nhà đầu tư, vừa thúc đẩy thị trường TPDN.
Ông Khổng Phan Đức, Chủ tịch HĐTV VietinBank Capital cho rằng, sau sự cố Tân Hoàng Minh, tất cả các bên, bao gồm cả cơ quan quản lý nhà nước cũng cảm thấy giật mình. Việc chấn chỉnh thị trường là cần thiết. Tuy vậy, theo ông Đức, cần phải tôn trọng quyền huy động vốn của doanh nghiệp. Với một số doanh nghiệp, TPDN riêng lẻ là một kênh cực kỳ quan trọng vì các kênh huy động vốn khác hầu như đã đóng lại.
“Nếu chặn nốt kênh trái phiếu phát hành riêng lẻ, họ sẽ phải nghĩ đến một kênh vốn đầu tư mạo hiểm, hoặc buộc phải quay lại thị trường chợ đen. Khi nói về thanh lọc thị trường, tôi rất đồng tình với ý kiến của Thủ tướng, những sai phạm vượt quá xa so với chuẩn mực, cần phải phanh lại, nhưng đồng thời, phải tạo điều kiện khắc phục được sai lầm đó, cũng như tạo điều kiện cho thị trường tự điều tiết thông qua việc tăng cường nhận thức”, ông Đức nói.
Theo các chuyên gia kinh tế, thay vì thắt quá chặt điều kiện phát hành TPDN, điều kiện về tài sản đảm bảo, cơ quan quản lý nên tập trung vào các giải pháp minh bạch thông tin (đặc biệt là tăng cường xếp hạng tín nhiệm), khuyến khích các quỹ đầu tư trái phiếu phát triển, nâng cao sự chuyên nghiệp cho các nhà đầu tư cá nhân… Đặc biệt, xếp hạng tín nhiệm được các chuyên gia cho rằng, rất nên khuyến khích vì là một chỉ báo vô cùng quan trọng giúp nhà đầu tư trong việc đưa ra quyết định đầu tư trái phiếu.
Siết cho vay bất động sản: Ngân hàng lên tiếng
Báo cáo của NHNN cho thấy, tính đến ngày 31/3/2022, dư nợ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh bất động sản đạt gần 784.000 tỷ đồng, tăng 12% so với cuối năm ngoái và tăng gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng tín dụng chung toàn hệ thống. Bên cạnh đó, tín dụng cho vay mua nhà, sửa nhà cũng tiếp tục tăng mạnh, đưa tổng dư nợ cho vay bất động sản đạt trên 2 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng dư nợ cho vay của toàn nền kinh tế.
Mặc dù tháng 4/2022, một số ngân hàng tuyên bố phải tạm ngừng cho vay bất động sản, song việc siết tín dụng chỉ diễn ra ở một số ngân hàng đã kín hạn mức. Trong khi đó, nhiều ngân hàng TMCP cho hay, vẫn còn nhiều dư địa mở rộng cho vay và sẽ tăng cường cho vay lĩnh vực này thời gian tới.
Theo ông Nguyễn Mạnh Quân, Tổng giám đốc ABBank, một số ngân hàng phải tạm ngừng cho vay bất động sản do cho vay quá nhiều trong thời gian qua. ABBank không bị rơi vào trường hợp này do tỷ trọng cho vay kinh doanh bất động sản tại Ngân hàng còn thấp (cho vay kinh doanh bất động sản chiếm 6% tổng dư nợ, cho vay nhà ở chiếm 17% tổng dư nợ).
“Chỉ số cho vay bất động sản được NHNN giám sát rất chặt. Chúng tôi được NHNN đánh giá tốt việc kiểm soát cho vay bất động sản, không nằm trong nhóm bị cảnh báo và sẽ tiếp tục đẩy mạnh cho vay thời gian tới do vẫn còn dư địa”, ông Quân cho biết.
Ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc VPBank cho rằng, siết tín dụng vào lĩnh vực bất động sản khi thị trường này tăng trưởng nóng là điều cần thiết. Tuy nhiên, bất động sản đã, đang và sẽ là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là với hệ thống ngân hàng thương mại. Nhu cầu mua nhà để ở của người dân là nhu cầu chính đáng và không bị siết.
Theo ông Vinh, với VPBank, bất động sản đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu cho vay và tiếp tục được duy trì, đẩy mạnh thời gian tới. Song Ngân hàng chỉ đẩy mạnh cho vay phục vụ nhu cầu ở thực, tiếp tục kiểm soát tín dụng bất động sản nghỉ dưỡng và đầu cơ.
“Hiện cho vay kinh doanh bất động sản chiếm chưa tới 10% tổng dư nợ, cho vay cá nhân mua nhà chiếm 40% tổng dư nợ tín dụng bán lẻ của VPBank. Bản chất của bất động sản là nhu cầu thiết yếu, nên thời gian tới, Ngân hàng sẽ tiếp tục coi trọng lĩnh vực này”, ông Vinh cho biết.
Tính đến ngày 25/4, tín dụng toàn nền kinh tế đã tăng 6,75%. Trong bối cảnh sản xuất bắt đầu phục hồi, nhiều chuyên gia cho rằng, một lượng lớn tín dụng quý I/2021 chảy vào bất động sản. Thực tế, cho vay bất động sản của nhiều ngân hàng đã chiếm tới 30-70% tổng dư nợ cho vay, tiềm ẩn nhiều rủi ro vì thị trường, sau một thời gian tăng trưởng nóng, đang có dấu hiệu giảm thanh khoản.
Lãnh đạo nhiều ngân hàng thương mại cho hay, dù không tạm dừng cho vay bất động sản, song ngân hàng có xu hướng thẩm định chặt chẽ hơn, chọn lọc hơn. Khẳng định kiểm soát tín dụng bất động sản là cần thiết, song ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, các ngân hàng chỉ dừng cho vay phân khúc đầu cơ, vẫn cho vay với người dân có nhu cầu mua nhà ở thật, các dự án tốt.
Trước đó, Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú khẳng định, năm 2022, NHNN tiếp tục siết chặt cho vay lĩnh vực rủi ro, trong đó có bất động sản. Tuy vậy, NHNN chỉ hạn chế dòng tiền vào những phân khúc đầu cơ, rủi ro của những dự án lớn, còn các dự án phục vụ nhu cầu ở thực của người dân, dự án nhà ở xã hội, thì NHNN vẫn khuyến khích cho vay.
Mặc dù không phải ngân hàng nào cũng ngừng giải ngân bất động sản, song tác động từ chính sách siết tín dụng bất động sản nói chung (gồm cả trái phiếu doanh nghiệp) đang khiến thanh khoản thị trường bất động sản chững lại. Nếu ngân hàng siết mạnh tay hơn trong khi trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ sắp bị thắt chặt, doanh nghiệp bất động sản gặp khó khăn kép, có thể sẽ gây đổ vỡ dây chuyền.
Vì vậy, trong bối cảnh nguồn vốn bị hạn chế như hiện nay, giới chuyên gia khuyến nghị, chính sách tín dụng bất động sản phải hết sức thận trọng. Đồng thời, doanh nghiệp bất động sản phải chọn lọc các dự án và tính toán lại dòng tiền, tập trung vốn vào các dự án khả thi, huy động vốn từ cổ đông, nhà đầu tư chiến lược, người mua…, thay vì phụ thuộc quá lớn vào vốn ngân hàng.
Lợi nhuận ngân hàng tăng mạnh
Lợi nhuận trước thuế quý I/2022 của VPBank tăng rất mạnh, đạt hơn 11.000 tỷ đồng, chủ yếu đến từ ngân hàng mẹ, trong đó có sự đóng góp từ mảng bảo hiểm. VPBank thông báo đã gia hạn thỏa thuận hợp tác độc quyền phân phối bảo hiểm qua ngân hàng với AIA thêm 4 năm nữa, đồng nghĩa với việc Ngân hàng ghi nhận một khoản phí trả trước không nhỏ vào lợi nhuận quý này.
Với kết quả trên, khả năng lợi nhuận cả năm của VPBank sẽ bứt phá rất mạnh, đứng trong nhóm ngân hàng có lợi nhuận cao nhất thị trường trong năm nay. Năm 2022, VPBank đưa ra mục tiêu lợi nhuận trước thuế ở mức kỷ lục gần 30.000 tỷ đồng.
Trong khi đó, lợi nhuận trước thuế quý I/2022 của Vietcombank đạt gần 10.000 tỷ đồng. Mục tiêu lợi nhuận trước thuế năm nay của nhà băng này là tăng tối thiểu 12%, đạt trên 30.676 tỷ đồng.
Ông Từ Tiến Phát, Tổng giám đốc ACB cho biết, lợi nhuận hợp nhất của Ngân hàng trong quý I/2022 đạt khoảng 4.200 tỷ đồng, tăng 35% so với cùng kỳ nhờ hoàn tất gần 3 tỷ đồng dự phòng rủi ro tín dụng. Tín dụng đến hết quý I/2022 tăng 5,2% so với đầu năm, huy động tăng 1,6%. Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) đạt 27% tại thời điểm cuối quý I/2022.
Theo số liệu mới nhất từ ngân hàng Nhà nước, đến cuối quý I/2022, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đạt 5,04%, tăng gấp 4 lần mức tăng của quý I/2021.
Theo thông tin từ MB, lợi nhuận hợp nhất quý I/2022 của ngân hàng này đạt khoảng 5.500 tỷ đồng trước thuế. Năm nay, MB đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15-35%, lợi nhuận đạt 19.800 tỷ đồng.
Ngoài ra, Ngân hàng LienVietPostBank cho hay, lợi nhuận trước thuế quý I/2022 đạt gần 1.800 tỷ đồng, hoàn thành 37,5% kế hoạch năm 2022. HDBank vừa công bố báo cáo tài chính quý I/2022 với lợi nhuận trước thuế 2.528 tỷ đồng, tăng 20,3% so với cùng kỳ và hoàn thành 26% kế hoạch năm. Lợi nhuận quý đầu năm 2022 của Nam A Bank, OCB, Ngân hàng Bản Việt lần lượt đạt 645 tỷ đồng, 836 tỷ đồng và 173 tỷ đồng.
Theo số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước, đến cuối quý I/2022, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đạt 5,04%, tăng gấp 4 lần mức tăng của quý I/2021. Riêng dư nợ tín dụng tại TP.HCM đạt trên 3 triệu tỷ đồng trong 4 tháng đầu năm, tăng 7% so với cuối năm 2021.
Cụ thể, dư nợ cho vay các doanh nghiệp trong khu công nghiệp - khu chế xuất trên địa bàn TP.HCM đến cuối tháng 3/2022 đạt trên 400.000 tỷ đồng, tăng 23,4% so với cuối năm 2021, tăng cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng tín dụng chung trên địa bàn. Kết quả này phù hợp với những chuyển biến tích cực của các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp - khu chế xuất, với hoạt động xuất nhập khẩu tăng trưởng khá trong 3 tháng đầu năm.
Ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP.HCM cho hay, dư nợ tín dụng ngắn hạn bằng VND đối với 5 nhóm ngành, lĩnh vực đạt 196.000 tỷ đồng với lãi suất thấp (không quá 4,5%/năm). Trong đó, dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất (76%) trong tổng dư nợ của chương trình này.
Theo thông tin từ các ngân hàng, tăng trưởng tín dụng theo hướng tích cực trong quý đầu năm nay. Cụ thể, tăng trưởng dư nợ tín dụng của MB đến cuối quý I/2022 ước đạt khoảng 10%, VCB tăng hơn 9%, HDBank tăng 9,5%...
HĐQT ACB đánh giá, hoạt động ngân hàng năm 2022 dù khó khăn hơn, nhưng vẫn có cơ hội từ kinh tế thế giới tiếp tục đà phục hồi và kinh tế trong nước đã xuống đáy sẽ đi lên nhanh hơn. Nhu cầu tín dụng sẽ tăng cao, nhất là từ quý II, đòi hỏi sự chuẩn bị dài hạn về nguồn vốn. Việc quản trị và điều hành để vừa tiết giảm chi phí, vừa bảo đảm thanh khoản và nắm bắt cơ hội mở rộng cho vay là vấn đề mà các ngân hàng sẽ đối diện trong năm 2022.
Cam kết giữ lãi vay đối với doanh nghiệp tham gia bình ổn thị trường, ổn định giá
NHNN - TP.HCM có văn bản yêu cầu các tổ chức tín dụng trên địa bàn giữ nguyên mức lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp tham gia bình ổn thị trường và giữ ổn định giá cả.
Việc yêu cầu các ngân hàng tham gia Chương trình bình ổn thị trường năm 2022 - Tết Quý Mão 2023 trên địa bàn TP.HCM được NHNN thành phố xác định là một nhiệm vụ của ngành Ngân hàng thành phố và góp phần thực hiện hiệu quả chương trình phục hồi kinh tế thành phố năm 2022.
Cụ thể, ngày 6/5, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chi nhánh TP HCM có văn bản yêu cầu các tổ chức tín dụng trên địa bàn giữ nguyên mức lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp tham gia bình ổn thị trường và giữ ổn định giá cả.
Theo NHNN thành phố, các doanh nghiệp tham gia chương trình này phần lớn là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và phân phối hàng hóa thiết yếu, thuộc các lĩnh vực: Lương thực - thực phẩm, y tế, giáo dục phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và đời sống của người dân thành phố.
Việc giữ ổn định lãi suất cho vay hoặc giảm lãi suất cho vay đối với các khách hàng này sẽ hỗ trợ doanh nghiệp giữ ổn định chi phí sản xuất, ổn định giá thành và không làm tăng giá bán sản phẩm.
Trên cơ sở mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn trong nhiều năm qua, các ngân hàng xem xét giữ ổn định lãi suất, không tăng lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp này.
Đồng thời, tiếp tục thực hiện cho vay với lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn thị trường.
Trước đó, NHNN thành phố đã chỉ đạo các ngân hàng trên địa bàn xem xét giảm lãi suất cho vay đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh nói chung nhằm ổn định giá cả nguyên vật liệu và chi phí đầu vào đang gia tăng trước các biến động địa chính trị trên thế giới, nhất là từ cuộc xung đột Nga - Ukraine.
Top 10 lợi nhuận ngân hàng quý I/2022: Thứ hạng thay đổi, xuất hiện gương mặt mới mà cũ
Đến thời điểm này, hầu hết các ngân hàng TMCP đều đã công bố kết quả kinh doanh quý I/2022. Theo đó, Top 10 ngân hàng có lợi nhuận cao nhất là: VPBank, Vietcombank, Techcombank, MB, VietinBank, BIDV, ACB, SHB, HDBank, Sacombank.
Trong top 10 lợi nhuận cao nhất năm nay có sự xuất hiện của “gương mặt mới Sacombank”. Thực tế, thời điểm 2014, trước khi sáp nhập Ngân hàng TMCP Phương Nam, Sacombank đã là một trong 10 ngân hàng có lợi nhuận tốt nhất hệ thống nhưng kết quả kinh doanh đi xuống do phải gánh khối nợ xấu lớn sau sáp nhập.
Như vậy, sau 8 năm, Sacombank lại quay trở về bảng Top 10 lợi nhuận nhờ nỗ lực xử lý nợ xấu thời gian qua. Tuy vậy, nếu tính top 10 lợi nhuận ngân hàng (không riêng khối ngân hàng TMCP), Sacombank lại bị rơi khỏi top 10 lợi nhuận quý I/2022, nguyên nhân là có sự xuất hiện của Agribank.
Xét về thứ hạng, VPBank tạm vượt qua Vietcombank vươn lên vị trí á quân về lợi nhuận quý I do nhận khoản thu bất thường (phí trả trước bảo hiểm hàng ngàn tỷ đồng từ hợp đồng hợp tác bảo hiểm với AIA). Rất có thể, trong quý tới, Vietcombank sẽ lấy lại ngôi đầu bảng do VPBank không còn khoản thu nhập bất thường.
Techcombank và MB vẫn giữ nguyên vị trí thứ 3 và thứ tư so với cùng kỳ năm 2021.
VietinBank từ vị trí á quân lùi xuống vị trí thứ 5 lợi nhuận trong quý I năm nay, chủ yếu do quý I/2021 lợi nhuận ngân hàng này cao đột ngột vì giảm mạnh trích lập dự phòng rủi ro.
Trong quý I năm nay, SHB cũng có sự thăng hạng mạnh mẽ về ngôi vị lợi nhuận khi vươn lên vị trí thứ 8 toàn hệ thống về lợi nhuận. Trong khi đó, VIB bị rơi khỏi bảng top 10 lợi nhuận do Sacombank vươn lên thế chỗ.
Còn xét về tốc độ tăng trưởng, dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng lợi nhuận quý I/2022 lại là Eximbank với mức tăng 278%, tiếp theo là VPBank tăng 178%, BacABank tăng 171%, SHB tăng 94%, SeABank tăng 87%, Sacombank tăng 70%, Saigonbank tăng 69%, LienVietPostBank tăng 61%, PGBank tăng 54%, NamABank tăng 40%.
Mặc dù đa phần lợi nhuận các ngân hàng đều khởi sắc song trong quý I/2022 vẫn có tới 5 ngân hàng sụt giảm lợi nhuận, bao gồm: VietinBank, OCB, Kienlongbank, VietBank, NCB. Nguyên nhân lợi nhuận giảm chủ yếu do các ngân hang fnayf phải tăng mạnh trích lập dự phòng rủi ro. Riêng Kienlongbank sụt giảm tới 82% do quý 1 năm ngoái ngân hàng ghi nhận khoản thu đột biến từ xử lý được khối tài sản bảo đảm là lượng lớn cổ phiếu STB.
Thống kê từ 27 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý 1/2022, tổng lợi nhuận đạt gần 68.000 tỷ đồng, tăng hơn 16.000 tỷ so với quý 1/2021, tương đương tăng 31%.
Trong số này duy nhất 2 ngân hàng lợi nhuận trong quý đạt gần 10.000 tỷ đồng trở lên (VPBank và VCB); có 5 ngân hàng lợi nhuận từ 5.800 tỷ đồng trở lên; có 11 ngân hàng lợi nhuận hơn 2.000 tỷ đồng trở lên và 15 ngân hàng lợi nhuận trên 1.000 tỷ đồng.
Fed tăng lãi suất, giá vàng sẽ theo hướng nào?
Chia sẻ với Báo điện tử Đầu tư - Baodautu.vn về diễn biến giá vàng sau động thái tăng lãi suất của Fed., ông Andrew Naylor, Giám đốc điều hành khu vực Châu Á Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc) tại Hội đồng Vàng Thế giới – WGC nhận định, thông thường khi lãi suất USD tăng thì giá vàng sẽ giảm. Tuy nhiên, nó cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế như: tình hình kinh tế và lạm phát của Mỹ cũng như tình hình địa chính trị Nga – Ukraine trong thời gian tới... sẽ tác động lên mặt hàng kim quý vàng.
Nhưng với diễn biến của lạm phát Mỹ trong thời gian qua và dự báo chưa hạ nhiệt trong thời gian tới thì mặt hàng kim quý vàng vẫn còn được hưởng lợi, dự báo tăng trưởng khi nhà đầu tư tìm đến hầm trú ẩn vàng.
Lạm phát vẫn là áp lực lớn đối với mặt hàng kim quý vàng trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, điều quan trọng đối với thị trường vàng hiện nay vẫn là chính sách tiền tệ của các ngân hàng Trung ương trên thế giới.
Trong đó, có việc Fed thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Mãi lực vàng của các ngân hàng trung ương trên thế giới trong thời gian tới cũng là yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng.
Các yếu tố tác động lên thị trường vàng gồm có: lạm phát Mỹ tăng cao, tình hình địa chính trị Nga – Urainie. Chính điều này đã tác động mạnh mẽ lên giá vàng trong thời gian qua cũng như dự báo cho xu hướng tới đây chưa hạ nhiệt.
Quỹ ETF vàng đã có dòng tiền vào mạnh, nhất là từ quý III/2021 đến đầu năm nay trước áp lực lạm phát của Mỹ và một số nước Châu Âu tăng cao nên nhà đầu tư đã tìm đến vàng như hầm trú ẩn an toàn.
Các quỹ ETF vàng có dòng tiền vào hàng quý mạnh nhất là 269 nghìn tấn kể từ quý III/2020, đảo ngược dòng tiền ròng 173 nghìn tấn hàng năm từ năm 2021 và một phần do giá vàng tăng.
Trong khi đó, nhu cầu vàng thỏi và đồng xu vàng cao hơn 11% so với mức trung bình 5 năm ở mức 282 tấn. Tuy nhiên, các đợt gia hạn phong tỏa ở Trung Quốc và giá cao ở Thổ Nhĩ Kỳ đã góp phần làm giảm 20% so với cùng kỳ năm ngoái, so với mức rất mạnh trong quý I/2021.
Về cơ bản thì nhu cầu vàng của nhà đầu tư tăng do các yếu tố trên. Nhưng nếu tính tổng thể trên toàn cầu thì tổng số lượng vàng tiêu thụ có phần giảm.
Một phần, do tác động của việc thực hiện chính sách zero Covid-19 tại Trung Quốc. Trong khi, đây được xem là thị trường tiêu thụ vàng rất lớn.
Trong đó, phải kể đến là tình hình tiêu thụ nữ trang của Trung Quốc đã giảm khoảng 7% trong quý I/2022 do lệnh phong tỏa vì Covid-19 tại Trung Quốc.
Vả lại, do giá vàng thế giới tăng cao trong thời gian qua nên nhiều người cũng hạn chế mua nữ trang vàng và tâm lý kỳ vọng mặt hàng này sẽ điều chỉnh.
Tuy nhiên, nhu cầu tích trữ vàng của các Ngân hàng Trung ương trên thế giới lại tăng lên khoảng 84 tấn (tương đương tăng 22%) ở quý I/2022.
Đồng thời, nhu cầu vàng cho công nghệ trên toàn thế giới vào khoảng 7% qua các năm và nhu cầu vàng cho công nghệ trong quý I/2022 vừa rồi cũng gia tăng. Nguyên nhân do đại dịch Covid-19 được kiểm soát nên nhu cầu vàng tăng trong lĩnh vực như: nha khoa, vi mạch..
Mãi lực vàng của Việt Nam tăng trong quý đầu năm nay do các lệnh phong tỏa đã được gỡ bỏ, kinh tế Việt Nam mở cửa trở lại đẩy nhu cầu vàng, trong đó có nữ trang tăng cao.
Mặt khác, quan ngại về lạm phát và không chỉ có lạm phát ở thế giới mà ngay cả Việt Nam cũng không ngoại lệ nên người tiêu dùng Việt Nam cũng nhận thấy trước áp lực lạm phát đi lên thì việc rót vốn vào vàng được xem là an toàn nên đẩy nhu cầu vàng lên cao.
Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu thụ vàng cũng như nữ trang vàng cũng tăng mạnh theo mùa vụ như tháng 1-2 ở Việt Nam thì có nhiều lễ, hội, dịp tết cuối năm và đầu năm như: ngày Thần Tài, lễ Tình Nhân... nên nhu cầu về vàng cũng gia tăng.
Trong khi mãi lực vàng của Việt Nam, Singapore trong quý I/2022 tăng, nhưng ngược lại ở Malaysia, Indonesia giảm. Còn Trung Quốc như chúng ta đã biết do áp lệnh phong tỏa nên mãi lực vàng giảm, tương tự Hàn Quốc cũng không tăng.
Ngoài ra, giá vàng còn phụ thuộc vào một yếu tố nữa đó là khi giá vàng tăng cao nhiều người lại bán vàng để kiếm lợi nhuận như: ở Thái Lan và Nhật Bản...
Tuy nhiên, mỗi thị trường có một văn hóa và thói quen của người tiêu dùng khác nhau nên chúng ta cũng không thể nói các thị trường như nhau.