Ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo: Quy định điều kiện cụ thể để tránh lạm quyền

0:00 / 0:00
0:00
Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến về dự thảo Nghị định quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ. Theo đó, để tránh tình trạng chiếm hữu bất hợp pháp hoặc lạm quyền, dự thảo đưa ra quy định cụ thể về điều kiện thu giữ.
Ngân hàng thu giữ tài sản đảm bảo: Quy định điều kiện cụ thể để tránh lạm quyền

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (Luật số 96/2025/QH15) chính thức luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng. Quy định này giúp các ngân hàng (chủ nợ) giảm chi phí thu hồi nợ, song cũng gây ra lo ngại dẫn đến việc chiếm hữu bất hợp pháp hoặc tình trạng lạm dụng của các chủ nợ có thể tạo ra xung đột giữa những người dân, thậm chí là những bên không tham gia giao dịch tín dụng.

Do đó, để tránh tình trạng này, trong dự thảo Nghị định đang được xây dựng, Ngân hàng Nhà nước đã quy định cụ thể về điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ ngoài các điều kiện theo quy định tại Luật số 96/2025/QH15.

Thứ nhất, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 198a Luật số 32/2024/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15 và các điều kiện sau: Tài sản bảo đảm không phải là nhà ở duy nhất của bên bảo đảm; Tài sản bảo đảm không phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm.

Thứ hai, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không phải là tài sản quy định tại khoản 1 Điều này được thu giữ khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 198a Luật số 32/2024/QH14 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15.

Theo tờ trình của Ngân hàng Nhà nước, trên thực tế, mặc dù để thực hiện thu giữ theo quy định tại Điều 198a Luật số 32/2024/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15, tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu phải tuân thủ các điều kiện, trình tự, thủ tục rõ ràng, minh bạch.

Để đảm bảo quy định trên được thực thi thống nhất, dự thảo Nghị định đưa ra 2 khái niệm “nhà ở duy nhất” và “công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất” (Điều 3).

Theo đó, nhà ở duy nhất là công trình xây dựng duy nhất thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm nơi bên bảo đảm ở và sinh sống ổn định, lâu dài hoặc thường xuyên sinh sống.

Quy định này được xây dựng trên cơ sở khái niệm “nhà ở” tại khoản 1 Điều 2 Luật Nhà ở số 27/2023/QH15 và khái niệm “chỗ ở hợp pháp”, “nơi thường trú”, “nơi ở hiện tại” tại khoản 1, 8, 10 Luật Cư trú số 68/2020/QH14.

Công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất là phương tiện lao động mang lại thu nhập chủ yếu hoặc duy nhất cho bên bảo đảm. Thu nhập chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm được xác định tương ứng với mức lương tối thiểu theo vùng nơi bên bảo đảm sinh sống và làm việc theo quy định của Chính phủ về mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam không có khái niệm “mang lại thu nhập chủ yếu hoặc duy nhất”. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 87 Luật Thi hành án dân sự và quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 55 dự thảo 4 Luật Thi hành án dân sự, “công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình” là tài sản không được kê biên.

Các khái niệm trên cũng được xây dựng trên cơ sở tham khảo về tài sản được loại trừ khi thực hiện kê biên tài sản bảo đảm của Đức (miễn trừ khỏi việc bị tịch thu nhằm đảm bảo các điều kiện sống cơ bản và khả năng lao động của bên nợ) và Canada (công cụ, tài sản cá nhân dùng để kiếm thu nhập theo nghề của khách hàng vay).

Dự thảo Nghị định cũng quy định trách nhiệm của bên bảo đảm.

Theo đó, về bản chất, việc thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định của Luật số 96/2025/QH15 là biện pháp xử lý theo thỏa thuận của các bên có liên quan. Tuy nhiên, bên thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm không có trách nhiệm cũng như không có khả năng để kiểm tra, xác minh nhà ở của cá nhân có phải là nhà ở duy nhất hay không và cũng không có khả năng kiểm tra, xác minh công cụ lao động có phải là công cụ lao động có phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất hay không.

Trường hợp phải thuê bên thứ ba thực hiện các công việc này sẽ làm phát sinh chi phí, thủ tục khi cấp tín dụng và/hoặc khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm. Do vậy, nghĩa vụ, trách nhiệm xác nhận, cam kết và chứng minh nội dung liên quan về tài sản bảo đảm thuộc về bên bảo đảm.

Căn cứ trên xác nhận, cam kết và tài liệu chứng minh của bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm đánh giá và “ứng xử” với tài sản bảo đảm phù hợp với khẩu vị rủi ro của mình (trường hợp tài sản bảo đảm được coi là nhà ở duy nhất và công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất, bên nhận bảo đảm không được tiến hành thu giữ).

T.L
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục