Ngân hàng mạnh tay đẩy vốn mùa cao điểm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Cuối năm là thời điểm “chạy nước rút” của doanh nghiệp khi nhu cầu vốn tăng cao và để đáp ứng nhu cầu này, ngân hàng cũng đẩy mạnh vốn ra thị trường.
Ngân hàng đẩy mạnh cho vay nhằm đáp ứng cầu vốn tăng cao dịp kinh doanh cao điểm cuối năm. Ngân hàng đẩy mạnh cho vay nhằm đáp ứng cầu vốn tăng cao dịp kinh doanh cao điểm cuối năm.

Chủ động “đón” doanh nghiệp

Thực tế tháng cuối năm 2025 cho thấy, ngân hàng không chờ “bị buộc” phải cho vay, mà chủ động đón cơ hội.

Chẳng hạn, SeABank khởi động chương trình “Đại lộ ưu đãi - Dẫn lối giao thương” triển khai từ 1/12/2025 đến 31/3/2026 hướng vào doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán, chuyển tiền quốc tế và vay vốn mùa cao điểm.

Những ưu đãi nổi bật gồm hoàn tiền giao dịch ngân hàng số tới 4 triệu đồng, hoàn 2 triệu đồng cho thẻ doanh nghiệp mới (Visa Corporate/SeAMileage/Visa Business), hoàn thêm 0,5% cho thẻ SeABiz Ultra Cash, cùng ưu đãi cho doanh số chuyển tiền quốc tế và hoàn tiền 5 triệu đồng cho doanh nghiệp lần đầu giải ngân tín dụng. Chương trình thể hiện chiến lược “kết dính” khách hàng bằng hệ sinh thái dịch vụ: Thẻ + ngân hàng số + tín dụng.

Ở chiều nguồn vốn quy mô lớn, Vietcombank làm đầu mối thu xếp cùng Agribank khoản tín dụng 6.750 tỷ đồng cho dự án mở rộng cao tốc TP.HCM - Long Thành, được ký kết vào cuối tháng 11/2025. Hình thức tài trợ dài hạn này cho thấy Vietcombank vẫn dành ưu tiên vốn cho các dự án hạ tầng trọng điểm, song song duy trì triển khai gói vay ưu đãi cho hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) với lãi suất từ 4,6%/năm.

Trong khi đó, VPBank và một số ngân hàng tư nhân khác chọn chiến lược hỗ trợ dòng tiền ngay cho SME (ưu đãi thẻ, hoàn tiền, giảm phí dịch vụ) - không chỉ nhằm thu hút khách hàng mới, mà còn chuẩn bị “đầu vào” cho hoạt động tín dụng khi cần.

Chiến lược này phản ánh thực tế phân khúc SME, tuy nhu cầu vốn cao nhưng rủi ro và chi phí xử lý khách hàng nhỏ, đòi hỏi các ngân hàng phải kết hợp sản phẩm thanh toán và tín dụng.

Có thể thấy, động lực chính của làn sóng ưu đãi cuối năm là cạnh tranh thị phần và tối ưu hóa hệ sinh thái khách hàng. Các ngân hàng muốn “khóa chân” khách hàng doanh nghiệp vào nền tảng dịch vụ của mình trước khi bước vào chu kỳ kinh doanh mới.

Những con số biết nói

Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến ngày 27/11/2025, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt 18.202.858 tỷ đồng, tăng 16,56% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 11,47%).

Bên cạnh đó, huy động vốn đạt 17.148.920 tỷ đồng, tăng 12,05% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 7,01%). Nhiều dự báo thể hiện tín dụng cả năm 2025 có thể chạm mức 18-20%, là một đợt mở rộng tín dụng mạnh, đủ để thay đổi cơ cấu thanh khoản trong hệ thống.

Đáng chú ý, khi tín dụng mở rộng ở tốc độ mà huy động không tăng tương ứng, hệ quả tất yếu là cán cân huy động - cho vay bị thu hẹp.

“Sự chênh lệch đó buộc nhiều ngân hàng phải gia tăng hoạt động trên thị trường liên ngân hàng để bù đắp nguồn vốn ngắn hạn và đáp ứng các tỷ lệ an toàn”, TS. Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia tài chính nêu quan điểm.

Quả vậy, dấu hiệu căng thẳng được phản ánh rõ ràng qua thị trường liên ngân hàng. Chênh lệch lãi suất VND - USD trong tháng 11 tiếp tục ghi nhận xu hướng tăng ở tất cả các kỳ hạn, dẫn dắt bởi đà tăng của lãi suất VND liên ngân hàng, trong khi lãi suất USD liên ngân hàng ổn định.

Tại các kỳ hạn ngắn qua đêm - 1 tuần, bình quân chênh lệch lãi suất tăng khoảng 40-50 điểm so với tháng 10, với biên độ dao động rộng. Tại các dải kỳ hạn dài hơn (3-6 tháng), chênh lệch lãi suất tăng mạnh khoảng 70-90 điểm và ghi nhận mức cao nhất trong gần 3 năm qua.

Trao đổi với Báo Đầu tư Chứng khoán, một lãnh đạo BIDV cho biết, thanh khoản VND duy trì trạng thái căng thẳng trong phần lớn thời gian của tháng 11 dưới tác động của nền thanh khoản từ cuối tháng 10 đã rất yếu và tiếp tục chịu áp lực thu hẹp do lượng tiền mặt ra ngoài lưu thông gia tăng, cũng như dòng tiền bị hút về Kho bạc Nhà nước khi thu ngân sách vẫn duy trì tích cực.

Theo số liệu của Bộ Tài chính, thu ngân sách nhà nước trong 10 tháng đầu năm ước đạt hơn 2,1 triệu tỷ đồng, tăng 28,5% so với cùng kỳ, trong khi giải ngân đầu tư công có xu hướng chậm lại khi mới hoàn thành gần 60% kế hoạch trong 11 tháng đầu năm, tương đương mức hoàn thành cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh đó, cân đối huy động - cho vay tiếp tục thu hẹp khi tăng trưởng tín dụng được đẩy nhanh hơn và lũy kế cao hơn 4-5% so với tăng trưởng huy động vốn. Sự suy giảm đó kéo theo áp lực tuân thủ các tỷ lệ an toàn thanh khoản của nhiều ngân hàng thương mại gia tăng mạnh.

Điều này cũng thể hiện ở nhu cầu nhận nguồn của các ngân hàng thương mại trên thị trường liên ngân hàng tăng cao: Theo dữ liệu từ Ngân hàng Nhà nước, doanh số giao dịch VND liên ngân hàng trong tháng 11 ước đạt bình quân hơn 800.000 tỷ đồng/phiên, tăng hơn 25% so với tháng 10 và gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái.

Ở chiều ngược lại, thanh khoản VND được hỗ trợ bởi động thái tăng cường bơm ròng qua kênh thị trường mở (OMO) của Ngân hàng Nhà nước (hơn 100.000 tỷ đồng) và phối hợp với kênh tiền gửi Kho bạc Nhà nước để bổ sung dòng tiền tại những thời điểm căng thẳng.

Tuy nhiên, dư địa để đẩy mạnh các công cụ này cũng hạn chế hơn khi số dư OMO lưu hành đã đạt mức kỷ lục (khoảng 330.000 tỷ đồng) và áp lực tỷ giá chưa hoàn toàn “hạ nhiệt”.

Tăng trưởng hay an toàn thanh khoản?

Đáng chú ý, ngay trong những phiên đầu tháng 12, chênh lệch lãi suất VND - USD liên ngân hàng có xu hướng bật tăng rất mạnh, đường cong lãi suất dốc ngược khi kỳ hạn ngắn cao hơn kỳ hạn dài khoảng 20-30 điểm.

Cụ thể, lãi suất liên ngân hàng qua đêm liên tục neo quanh ngưỡng 7%/năm từ đầu tuần, thậm chí chạm đỉnh 3 năm tại mức 7,5%/năm vào phiên ngày 3/12. Hiện lãi suất qua đêm đã giảm về 7%/năm, song vẫn là mức rất cao cho thấy thanh khoản hệ thống tiếp tục khó khăn.

Ngày 4/12, Ngân hàng Nhà nước bơm ròng hơn 3.200 tỷ đồng. Đáng chú ý, nhà điều hành đã tăng lãi suất OMO lần đầu tiên kể từ giữa tháng 5/2024 với mức tăng 0,5 điểm phần trăm lên 4,5%/năm.

Việc tăng lãi suất phản ánh áp lực thanh khoản toàn hệ thống ở mức cao và Ngân hàng Nhà nước tiếp tục dùng các công cụ có kỳ hạn dài hơn nhằm điều tiết thanh khoản. Lũy kế từ đầu tuần tới ngày 4/12, Ngân hàng Nhà nước bơm ròng hơn 30.800 tỷ đồng, qua đó nâng lượng lưu hành trên kênh OMO lên hơn 361.600 tỷ đồng.

Theo vị lãnh đạo BIDV, dự kiến đà tăng có thể dịu lại về cuối tháng khi các kênh hỗ trợ thanh khoản được tăng cường, nhưng nhìn chung chênh lệch lãi suất vẫn sẽ ở mức cao trong tháng 12 (bình quân kỳ hạn qua đêm - 1 tuần tăng 50-70 điểm so với tháng 11) do các yếu tố tạo áp lực lên lãi suất và thanh khoản VND vẫn chiếm ưu thế:

Thứ nhất, thanh khoản VND diễn biến căng thẳng ngay đầu tháng do áp lực từ lượng đáo hạn lớn các dòng tiền hỗ trợ (OMO và tiền gửi Kho bạc Nhà nước), cộng hưởng với nhu cầu nhận nguồn trên thị trường liên ngân hàng của các ngân hàng thương mại để đảm bảo dự trữ bắt buộc và tỷ lệ thanh khoản cũng tăng mạnh do tâm lý lo ngại trong giai đoạn cuối năm.

Thứ hai, áp lực thanh khoản dự kiến có thể dịu lại về cuối tháng khi các dòng tiền hỗ trợ từ kênh OMO của Ngân hàng Nhà nước và kênh tiền gửi Kho bạc Nhà nước được tăng cường, đồng thời dòng chi giải ngân ngân sách nhà nước cũng kỳ vọng được đẩy nhanh hơn trong tháng 12 do đầu tư công tăng tốc về cuối năm.

“Trạng thái thanh khoản nhìn chung vẫn sẽ eo hẹp do nhu cầu thanh toán bằng tiền mặt tiếp tục gia tăng theo chu kỳ.

Song song với đó, cân đối huy động - cho vay của hệ thống ngân hàng trên đà thu hẹp khi tín dụng dự kiến tăng tốc trong tháng cuối năm (ước tăng khoảng 3-4% trong tháng 12, cả năm tăng khoảng 18-20%) và lũy kế vẫn cao hơn so với huy động vốn khoảng 3-4%.

Theo đó, nhu cầu nhận nguồn để đáp ứng các tỷ lệ dự trữ bắt buộc và an toàn thanh khoản của nhiều ngân hàng vẫn ở mức cao”, vị lãnh đạo BIDV nói.

Rõ ràng, cuộc đua ưu đãi cuối năm mang đến lợi ích tức thời cho doanh nghiệp: Tiếp cận vốn, chi phí giao dịch giảm và hỗ trợ dòng tiền.

Nhưng với áp lực tăng trưởng tín dụng đã chạm ngưỡng 2 chữ số cao trong năm 2025 đòi hỏi các ngân hàng phải quản trị giữa 2 mục tiêu dễ xung đột: Giành thị phần tín dụng bằng ưu đãi và nới quy trình cho SME, doanh nghiệp xuất khẩu; quản lý rủi ro lãi suất và chi phí vốn khi huy động chịu cạnh tranh và lãi suất huy động có xu hướng nhích lên cuối năm.

“Với doanh nghiệp, thông điệp rõ ràng là, đúng thời điểm để thương lượng điều kiện vay, nhưng phải cân nhắc chi phí vốn - bởi lãi suất huy động - cho vay có thể biến động do áp lực thanh khoản. Về phía ngân hàng, bài toán cần giải là tìm cách đẩy vốn có chọn lọc, ưu tiên những khoản cho vay hiệu quả, có tài trợ tốt và không làm suy yếu thanh khoản trong ngắn hạn”, TS. Nguyễn Trí Hiếu nói.

Hồng Dung

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục