Nếu lãi suất duy trì ở mức hợp lý thì tỷ giá sẽ ổn định

(ĐTCK) Theo TS. Lê Xuân Nghĩa - chuyên gia kinh tế, kỳ vọng lãi suất có thể giảm thêm để kích thích sản xuất, tiêu dùng là khó ở thời điểm hiện tại, bởi đã trở thành quy luật, khi tín dụng tăng, mặt bằng lãi suất khó có thể giảm sâu.
Mặt bằng lãi suất thấp được duy trì trong thời gian dài để hỗ trợ nền kinh tế

Theo ông, đâu là những yếu tố vĩ mô quan trọng nhất đang chi phối xu hướng lãi suất trong những tháng cuối năm nay?

Tín dụng đã tăng cao trở lại trong những tháng gần đây, chủ yếu do nhu cầu vốn phục vụ sản xuất - kinh doanh giai đoạn cao điểm cuối năm. Đây là thời điểm doanh nghiệp các lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ… đẩy mạnh hoạt động để đáp ứng nhu cầu thị trường dịp lễ tết, dẫn đến nhu cầu bổ sung vốn lưu động tăng.

Đáng chú ý, nhu cầu tín dụng bất động sản cũng tăng. Nguyên nhân là sau giai đoạn thị trường địa ốc trầm lắng kéo dài, mặt bằng lãi suất đã giảm mạnh, nhiều dự án pháp lý được tháo gỡ, tâm lý nhà đầu tư dần cải thiện. Các chủ đầu tư cần vốn để tái khởi động dự án, trong khi người mua nhà cũng tranh thủ thời điểm lãi suất thấp để tiếp cận tín dụng. Ngoài ra, dòng vốn trung - dài hạn cho bất động sản còn có vai trò lan tỏa sang nhiều ngành khác như xây dựng, vật liệu, nội thất…, tạo hiệu ứng tích cực cho toàn nền kinh tế.

Nhu cầu tín dụng tăng nên không ít ngân hàng quan ngại về thanh khoản cuối năm. Để sẵn sàng nguồn vốn, các ngân hàng đã tăng huy động vốn nên lãi suất huy động có dấu hiệu tăng. Đây không phải là vấn đề bất thường bởi năm nào cũng vậy, tín dụng nửa cuối năm đều gấp đôi nửa đầu năm.

TS. Lê Xuân Nghĩa - chuyên gia kinh tế

Lãi suất huy động tăng, liệu lãi suất cho vay thời gian tới có thể giữ ở mức đang được nhận định là “vùng đáy” như hiện nay? Ông đánh giá thế nào về dư địa giảm thêm lãi suất để kích thích đầu tư và tiêu dùng cuối năm?

Huy động vốn tăng chậm bởi tiền gửi của doanh nghiệp giảm do đang cần vốn kinh doanh vào vụ mùa cuối năm. Bên cạnh đó, tiền gửi của dân cư giảm do người dân có nhiều kênh đầu tư khác mang lại lợi suất cao hơn như vàng, bất động sản, chứng khoán... Từ đầu năm đến cuối tháng 9/2025, khối ngoại đã bán ròng kỷ lục 102.000 tỷ đồng mà chỉ số chứng khoán vẫn tăng, điều đó có nghĩa là người dân Việt Nam đầu tư nhiều vào chứng khoán, dẫn đến chênh lệch giữa huy động và cho vay. Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi và cho vay nếu có tăng thì chủ yếu diễn ra ở những ngân hàng nhỏ nhằm tăng thanh khoản cho tín dụng cuối năm.

Kỳ vọng lãi suất có thể giảm để kích thích sản xuất tiêu dùng là khó, bởi tăng trưởng càng nhanh thì lãi suất cũng tăng theo. Đó là quy luật bình thường của thị trường. Muốn kích thích sản xuất và tiêu dùng thì cần giảm lãi suất, nhưng thực tế không dễ. Bởi cùng lúc, nhu cầu vốn cho phát hành trái phiếu chính phủ và nhiều kênh huy động khác đều tăng, trong khi phần lớn người mua vẫn là các ngân hàng thương mại. Trái phiếu chính phủ cũng được tính vào dư nợ tín dụng nên không thể đi ngược quy luật: Khi tín dụng tăng, mặt bằng lãi suất khó có thể giảm sâu.

Tôi muốn chia sẻ thêm rằng, áp lực từ lạm phát hay cung tiền hiện không quá lớn. Cung tiền vẫn diễn ra bình thường và không phải Ngân hàng Nhà nước “bơm tiền” thêm như nhiều người hiểu lầm. Tín dụng tăng chủ yếu đến từ nguồn vốn huy động trong hệ thống ngân hàng, chứ không phải từ việc in thêm tiền. Theo đó, lãi suất cho vay doanh nghiệp nếu có tăng cũng rất nhỏ, chỉ ở mức 0,1-0,2%/năm, nên không tạo ra áp lực. Tỷ lệ tiền gửi so với cho vay vẫn tương đối an toàn và đáng chú ý là tỷ lệ bao phủ nợ xấu có giảm đi. Đây cũng là một biểu hiện của tín dụng tăng, bởi ngân hàng dành nhiều tiền cho tín dụng nên trích lập dự phòng rủi ro giảm đi.

Câu chuyện tỷ giá hối đoái cuối năm sẽ tác động như thế nào đến lãi suất, thưa ông?

Tỷ giá có thể chịu áp lực tăng nhẹ vào cuối năm, chủ yếu do những biến động từ phía Mỹ. Dù Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có khả năng giảm lãi suất, khiến đồng USD suy yếu, nhưng thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ lại có xu hướng thu hẹp. Điều này vừa tạo yếu tố hỗ trợ, vừa gây áp lực ngược chiều lên tỷ giá.

Một mặt, việc USD giảm giá giúp giảm bớt áp lực lên tỷ giá USD/VND. Tuy nhiên, nếu thặng dư thương mại giảm, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam cũng sẽ bị ảnh hưởng, qua đó lại tạo áp lực tăng lên tỷ giá. Thực tế cho thấy, dù đồng USD đã giảm gần 10% từ đầu năm, nhưng tỷ giá USD/VND vẫn neo cao, thậm chí có thời điểm tăng nhẹ.

Khi tỷ giá tăng, hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn, kéo theo rủi ro lạm phát nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước có 2 lựa chọn chính: Hoặc nâng lãi suất để giảm áp lực tỷ giá, hoặc bán ngoại tệ ra thị trường nhằm ổn định cung - cầu USD. Song, dù lựa chọn phương án nào, điều chắc chắn là biến động tỷ giá sẽ tạo sức ép nhất định lên mặt bằng lãi suất trong nước những tháng cuối năm.

Trước những biến động có thể xảy ra với lãi suất cuối năm, doanh nghiệp và người vay vốn nên chuẩn bị tâm thế và chiến lược tài chính như thế nào?

Có ý kiến lo ngại thị trường tài chính có thể xuất hiện khủng hoảng như giai đoạn 2008-2011. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, giai đoạn đó là khủng hoảng tài chính toàn cầu, khi hệ thống ngân hàng thế giới rơi vào bất ổn, kéo theo suy thoái kinh tế. Hiện nay, tình hình hoàn toàn khác: Hệ thống ngân hàng quốc tế vẫn hoạt động ổn định, không có dấu hiệu đổ vỡ. Các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) hay Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cũng chỉ điều chỉnh dự báo tăng trưởng toàn cầu giảm rất nhẹ, chỉ khoảng 0,1 điểm phần trăm. Do đó, ảnh hưởng từ bên ngoài tới hệ thống tài chính Việt Nam là không tiêu cực.

Điều doanh nghiệp cần lưu ý là những yếu tố rủi ro mới từ bên ngoài, đặc biệt là tác động của chính sách thuế quan của Mỹ sẽ rõ nét hơn trong quý IV/2025 và năm 2026. Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung có khả năng làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo áp lực lạm phát quay trở lại. Các doanh nghiệp xuất khẩu sang Mỹ, nhất là trong lĩnh vực dệt may, có thể chịu sức ép cạnh tranh lớn nếu mức thuế áp lên hàng hóa Việt Nam cao hơn so với các đối thủ trong khu vực. Chỉ cần chênh lệch vài điểm phần trăm cũng đủ khiến đơn hàng dịch chuyển sang nước khác.

Ở tầm vĩ mô, thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ hiện rất cao, khoảng 120 tỷ USD, tương đương 25% GDP - vượt xa tỷ lệ của Trung Quốc (1,5% GDP). Vì vậy, nếu xuất khẩu sang Mỹ chậm lại, tăng trưởng kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ chịu tác động đáng kể. Cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế có thể bị ảnh hưởng, kéo theo áp lực lên tỷ giá. Đây là yếu tố mà nhà điều hành cần theo dõi sát sao trong thời gian tới.

Do đó, doanh nghiệp cần chuẩn bị tâm thế chủ động ứng phó, đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc vào một số thị trường lớn và xây dựng chiến lược tài chính linh hoạt hơn trong bối cảnh lãi suất, tỷ giá và thương mại toàn cầu tiềm ẩn nhiều biến động.

Trong điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ ưu tiên mục tiêu nào?

Theo tôi, nhà điều hành sẽ tiếp tục đặt ưu tiên vào việc giữ ổn định mặt bằng lãi suất và tỷ giá, qua đó đảm bảo thanh khoản hệ thống. Bởi thực chất, mọi công cụ điều hành đều quy tụ về lãi suất - đây là chỉ số trung tâm phản ánh cả cung - cầu vốn, kỳ vọng tỷ giá lẫn tâm lý thị trường.

Nếu lãi suất duy trì ở mức hợp lý thì tỷ giá sẽ ổn định, dòng vốn sẽ ít biến động và thanh khoản của các ngân hàng thương mại được đảm bảo. Trong bối cảnh hiện nay, khi tín dụng tăng nhanh, huy động vốn có dấu hiệu chững lại và lãi suất liên ngân hàng nhích lên, điều Ngân hàng Nhà nước cần làm là điều tiết linh hoạt qua kênh thị trường mở, đảm bảo không để xảy ra căng thẳng thanh khoản cục bộ.

Nói cách khác, mục tiêu ưu tiên hàng đầu vẫn là ổn định giá trị đồng tiền và hệ thống ngân hàng, giữ cho thị trường tiền tệ vận hành trơn tru. Các yếu tố khác như tăng trưởng tín dụng hay hỗ trợ kinh tế sẽ được cân nhắc trong giới hạn không làm mất ổn định vĩ mô.

Hồng Dung thực hiện.

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục