Nâng hạng tín nhiệm quốc gia: Một bước chuyển đúng có thể xoay chuyển cả cục diện

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Nâng hạng tín nhiệm quốc gia lên mức “Investment Grade” có tác động lớn nhất, sâu rộng nhất tới các thị trường tài chính và các lớp tài sản đầu tư.
Ảnh: Chí Cường Ảnh: Chí Cường

Tác động sâu rộng của nâng hạng tín nhiệm quốc gia

Chia sẻ tại Tọa đàm “Sức hút của các lớp tài sản” do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức ngày 13/11, ông Vũ Việt Linh, Phó giám đốc Phòng Phân tích Khách hàng tổ chức Maybank Investment Bank (Vietnam) cho rằng, nâng hạng tín nhiệm quốc gia lên mức “Investment Grade” có tác động lớn nhất, sâu rộng nhất tới các thị trường tài chính và các lớp tài sản đầu tư.

Cụ thể, việc nâng hạng có thể giúp giảm chi phí vay vốn từ 150 - 300 điểm cơ bản; mở khóa nguồn vốn từ các quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư quốc gia; phát tín hiệu về ổn định vĩ mô, qua đó giảm biến động tỷ giá và chi phí rủi ro; đồng thời, góp phần cải thiện xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp.

Ông Vũ Việt Linh, Phó giám đốc Phòng Phân tích Khách hàng tổ chức Maybank Investment Bank (Vietnam) chia sẻ tại Tọa đàm. Ảnh: Đức Thanh

Ông Vũ Việt Linh, Phó giám đốc Phòng Phân tích Khách hàng tổ chức Maybank Investment Bank (Vietnam) chia sẻ tại Tọa đàm. Ảnh: Đức Thanh

Hiện tại, Việt Nam đang tiến gần tới mức tín nhiệm Investment Grade, với khả năng đạt được vào năm 2028 (kịch bản tích cực) hoặc năm 2030 (kịch bản cơ sở).

Chia sẻ cụ thể hơn, việc nâng hạng tín nhiệm quốc gia sẽ phát tín hiệu về nền tảng vĩ mô vững chắc hơn, qua đó giúp giảm mức bù rủi ro quốc gia và rủi ro cổ phiếu (doanh nghiệp). Bên cạnh đó, hồ sơ rủi ro vững chắc hơn có thể thúc đẩy dòng vốn ngoại, ổn định tỷ giá nội tệ và cải thiện hiệu suất thị trường cổ phiếu. Điều này được thể hiện qua việc dòng vốn ngoại có thể chảy vào thị trường mạnh mẽ hơn, FDI tăng cao nhờ niềm tin của nhà đầu tư được củng cố; cải thiện khả năng tiếp cận nguồn vốn toàn cầu cho cả khu vực công và tư nhân.

Bên cạnh đó, việc nâng hạng tín nhiệm quốc gia cũng có tác động ổn định tỷ giá bởi nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc hơn; cán cân thanh toán cải thiện nhờ dòng vốn ngoại mạnh mẽ; dự trữ ngoại hối gia tăng; tỷ giá hối đoái ổn định hơn.

Đáng chú ý, thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh khi chi phí vốn cổ phần giảm nhờ phần bù rủi ro quốc gia và cổ phiếu thấp hơn, giúp định giá doanh nghiệp hấp dẫn hơn; triển vọng lợi nhuận doanh nghiệp cải thiện nhờ chi phí vay giảm và môi trường kinh tế - đầu tư thuận lợi hơn.

Ông Linh cho biết, dựa trên nghiên cứu số liệu và thực tế tại nhiều thị trường, việc được nâng hạng tín nhiệm lần đầu tiên đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho các nước khác và Việt Nam cũng có thể kỳ vọng điều tương tự.

Tác động của việc được nâng hạng tín nhiệm quốc gia tới một số nền kinh tế
Tác động của việc được nâng hạng tín nhiệm quốc gia tới một số nền kinh tế

Các nhà đầu tư chứng khoán tại các thị trường chuẩn bị được nâng hạng cũng thường có lợi nhuận đầu tư rất cao ở giai đoạn khoảng 2 năm trước khi được nâng hạng, khi nhà đầu tư kiên trì nắm giữ.

“Khi nền kinh tế duy trì tăng trưởng tốt, các cải cách về thể chế tiếp tục được thực hiện nhanh và sâu rộng thì việc Việt Nam được nâng hạng lên mức Investment Grade hoàn toàn có thể xảy ra vào năm 2028”, ông Linh cho biết.

Tháo gỡ những nút thắt

Về xếp hạng tín nhiệm quốc gia, phương pháp đánh giá của các tổ chức xếp hạng lớn bao gồm FitchRatings, S&P Global, Moody’s có sự tương đồng cao, đặc biệt ở các chỉ số đánh giá cốt lõi. Trong đó, theo Fitch, S&P và Moody’s, những trở ngại chính đối với việc nâng hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam gồm: rào cản luật pháp, rủi ro ngành ngân hàng, và suy giảm bộ đệm ngoại hối.

Cụ thể hơn, về rào cản luật phát, sức mạnh thể chế của Việt Nam bị hạn chế bởi khả năng dự đoán chính sách và mức độ minh bạch thp hơn so với các thị trường mới nổi khác. Ngành ngân hàng của Việt Nam tiềm ẩn rủi ro cao do quy mô lớn so với GDP, làm gia tăng khả năng cần đến hỗ trợ tài khóa đáng kể trong trường hợp xảy ra cú sốc kinh tế nghiêm trọng, chỉ số an toàn vốn của ngành ngân hàng còn thấp, dẫn đến những nghĩa vụ nợ tiềm tàng cho Chính phủ, các ngân hàng trong nước có mức độ tiếp cận thị trường toàn cầu hạn chế, trong khi sở hữu chéo và cho vay liên kết có thể ảnh hưởng đến chất lượng tài sản.

Đặc biệt, vấn đề bộ đệm ngoại hối được các tổ chức nhấn mạnh. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn ở mức vừa phải, được hỗ trợ bởi nhu cầu trả nợ nước ngoài thấp và dòng vốn FDI cùng cán cân vãng lai mạnh mẽ. Tuy nhiên, dự trữ ngoại hối gần đây đã suy giảm do áp lực mất giá của VND.

Mặc dù còn nhiều thách thức, Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy các cải cách nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn trọng yếu trên hành trình hướng tới mức tín nhiệm đầu tư (Investment Grade).

Trong đó, Chính phủ Việt Nam nhìn nhận rằng khoảng trống pháp lý là “nút thắt của mọi nút thắt” cần được xử lý để phục vụ phát triển dài hạn của Việt Nam. Theo đó, Nghị quyết 66 được ban hành năm 2025 đặt mục tiêu xây dựng khung pháp lý minh bạch, hiện đại và phù hợp với chuẩn mực quốc tế vào năm 2030. Việc tinh gọn bộ máy Chính phủ và các đơn vị cấp tỉnh gần đây nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp nội bộ và đẩy nhanh quá trình ra quyết định. Chính phủ cũng đặt mục tiêu cắt giảm 30% quy định kinh doanh để đưa Việt Nam vào nhóm 3 nước có môi trường đầu tư tốt nhất ASEAN vào năm 2028.

Ngành ngân hàng cũng đang được củng cố, với mục tiêu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) toàn ngành đạt 12% vào năm 2030. Nhằm phát triển thị trường vốn, Chính phủ đặt mục tiêu vốn hóa thị trường cổ phiếu và dư nợ trái phiếu doanh nghiệp lần lượt đạt 120% và 25% GDP vào năm 2030, so với mức 43% và 11% vào năm 2024.

Về bộ đêm ngoại hối, Chính phủ đang xem xét phát hành trái phiếu bằng đồng USD để tăng dự trữ ngoại hối và huy động vốn cho hạ tầng. Theo Quyết định 412, Chính phủ đặt mục tiêu dự trữ ngoại hối đạt tối thiểu mức đủ cho 4 tháng nhập khẩu vào năm 2030.

Các mục tiêu trọng tâm giai đoạn 2026-2030 so với các giai đoạn trước tại Việt Nam

Các mục tiêu trọng tâm giai đoạn 2026-2030 so với các giai đoạn trước tại Việt Nam

Theo Maybank, nếu Việt Nam thực hiện thành công kế hoạch kinh tế 2026 - 2030, thì việc nâng hạng tín nhiệm quốc gia lên mức Investment Grade là hoàn toàn khả thi.

Yếu tố cần quan tâm lớn nhất là dự trữ ngoại hối, Dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện vẫn đáp ứng được nhu cầu, song sẽ trở nên thiếu hụt nếu không được cải thiện tương ứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một khi vấn đề này được củng cố, lo ngại của nhà đầu tư sẽ giảm rõ rệt.

Lam Phong

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục