Muốn bình ổn giá thép nội, Bộ Tài chính đề nghị tăng thuế xuất khẩu phôi thép

0:00 / 0:00
0:00
Các mặt hàng phôi thép (nhóm 72.06 và 72.07) được đề nghị điều chỉnh tăng thuế xuất khẩu từ 0% lên 5% nhằm hạn chế xuất khẩu phôi thép để giữ cho sản xuất trong nước.
Sản xuất phôi thép tại Tập đoàn Hoà Phát Sản xuất phôi thép tại Tập đoàn Hoà Phát

Tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020/NĐ-CP liên quan đến biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ điều chỉnh tăng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép (nhóm 72.06 và 72.07) từ 0% lên 5%.

Theo Bộ Tài chính, thực hiện theo phương án này sẽ góp phần ổn định nguồn cung phôi thép cho thị trường trong nước, bình ổn giá trên thị trường và hạn chế được việc xuất khẩu phôi thép để giữ cho sản xuất trong nước, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành thép trong dài hạn.

Cũng để góp phần giảm giá thép nguyên liệu đầu vào, Bộ Tài chính đồng thời trình Chính phủ giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với một số sản phẩm thép xây dựng xuống còn từ 10 - 15%

Theo đó, điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với thép cốt bê tông thuộc nhóm 72.13, 72.14, 72.15 (mã HS 7213.91.20; 7213.99.20; 7214.20.31; 7214.20.41; 7214.20.51; 7214.20.61; 7215.50.91; 7215.90.10) từ 20% xuống 15%; đối với thép góc, khuôn, hình thuộc nhóm 72.16 (mã HS 7216.33.11; 7216.33.19; 7216.33.90) và thép có răng khía thuộc nhóm 72.13 (mã HS 7213.10.10 và 7213.10.90) từ 15% xuống 10%.Điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với nhóm sắt thép không hợp kim cán phẳng thuộc 8 mã hàng của nhóm 72.10 (HS 7210.41.11; 7210.41.91;7210.49.12; 7210.49.91; 7210.61.11; 7210.61.91; 7210.69.11; 7210.69.91) từ mức 20% và 25% xuống 15%.

Xuất phát điểm của các đề nghị này của Bộ Tài chính dường như là bởi giá thép xây dựng trong nước liên tục tăng mạnh mà chủ yếu do tăng giá nguyên liệu sản xuất thép và ngành thép phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài.

Bộ này cũng cho rằng, việc giá thép tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ và giải ngân cũng như chi phí dự phòng của các dự án, đặc biệt các dự án đầu tư công; ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của nhiều ngành sản xuất.

Theo lập luận của Bộ Tài chính, mức thuế suất MFN đối một số loại sắt thép xây dựng đã được áp dụng trong một thời gian dài với mức tương đối cao (lên đến 15%, 20% và 25%). Bởi vậy, việc điều chỉnh thuế này là để góp phần hạ giá mặt hàng thép xây dựng, thúc đẩy các doanh nghiệp giảm chi phí, đặc biệt trong bối cảnh giá nguyên liệu tăng cao.

Bộ này cũng cho rằng, thời gian qua, với nhiều chính sách phù hợp, trong đó có chính sách thuế xuất nhập khẩu, ngành thép trong nước đã duy trì tốc độ tăng trưởng khá, từng bước tự chủ được công nghệ và năng lực sản xuất phôi thép, thép xây dựng, đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài.

Hiện Luật Thuế Xuất khẩu, thuế nhập khẩu và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP quy định thuế xuất khẩu được áp dụng chủ yếu đối với những mặt hàng là tài nguyên, khoáng sản không tái tạo.

Mức thuế xuất khẩu được xây dựng dựa theo nguyên tắc áp dụng mức cao đối với nguyên liệu, tài nguyên ở dạng thô và giảm dần đến các sản phẩm có mức độ chế biến cao hơn nhằm hạn chế xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên, sử dụng tài nguyên có hiệu quả, tạo giá trị gia tăng trong nước.

Theo nguyên tắc này, các mức thuế xuất khẩu đối với mặt hàng sắt thép đã được quy định như sau: mặt hàng quặng sắt thuộc nhóm 26.01, có thuế xuất khẩu 40%, bằng mức trần khung thuế xuất khẩu. Phế liệu sắt thuộc nhóm 72.04 có thuế xuất khẩu từ 15 - 17% bằng với mức trần khung thuế xuất khẩu. Phôi thép thuộc nhóm 72.06, 72.07 (bán thành phẩm) có thuế xuất khẩu 0%, khung thuế suất thuế xuất khẩu là 0 - 40%.

Mặt hàng thép xây dựng (thuộc nhóm 72.13, 72.14, 72.15, 72.16) hiện không có trong Danh mục khung thuế suất thuế xuất khẩu ban hành kèm Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nên mức thuế xuất khẩu áp dụng là 0%.

Về thuế suất thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thép (quặng, thép phế liệu) và thép xây dựng, Nghị định số 57/2020/NĐ-CP quy định thuế nhập khẩu 0% hoặc thấp đối với nguyên liệu (quặng, thép phế liệu) để khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng này cho sản xuất trong nước, hay duy trì mức thuế suất cao hơn đối với bán thành phẩm (phôi thép), thép thành phẩm, khuyến khích sản xuất phôi, thép thành phẩm trong nước.

Đối với các mặt hàng thép trong nước không sản xuất được (thép hợp kim) quy định mức thuế suất 0% hoặc thấp để giúp các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào. Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, việc NK sắt thép từ các thị trường này sẽ thực hiện theo mức thuế suất FTA tại các hiệp định.

Nghị định số 57/2020/NĐ-CP quy định: mức thuế suất thuế NK MFN của một số mặt hàng thép xây dựng ở mức 15%, 20% và 25%. Các mức thuế này cơ bản đảm bảo tuân thủ nguyên tắc ban hành biểu thuế, thuế suất quy định tại Luật Thuế XK, thuế NK. Mức thuế suất này được áp dụng để thúc đẩy ngành thép trong nước phát triển trong giai đoạn đầu.

Theo Bộ Tài chính, việc giảm mức thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng nêu trên tuy có một số ảnh hưởng làm giảm thu ngân sách nhà nước nhưng mức ảnh hưởng dự báo không lớn do nhu cầu nhập khẩu các loại sắt thép này hiện nay là không cao.

Đây là những loại thép mà trong nước cũng đã sản xuất được và cơ bản đáp ứng được nhu cầu. Tuy nhiên, việc điều chỉnh này sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đầu tư, đổi mới công nghệ để giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm thép nhập khẩu; qua đó góp phần bình ổn thị trường trong nước, đồng thời, thúc đẩy ngành thép phát triển bền vững.

Việt Nam sản xuất khoảng 24 triệu tấn phôi thép/năm

Năng lực sản xuất phôi thép của Việt Nam hiện nay đạt khoảng 24 triệu tấn/năm. Năm 2020, sản xuất phôi thép đạt 17,21 triệu tấn, đạt 70% năng lực sản xuất. Trong 4 tháng đầu năm 2021, sản lượng phôi thép sản xuất trong nước đạt khoảng 7,13 triệu tấn, tăng 35% so với cùng kỳ năm 2020. Năm 2020, tổng sản lượng thép xây dựng sản xuất đạt 10,11 triệu tấn, trong 4 tháng đầu năm 2021 đạt 3,93 triệu tấn, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2020.

Về tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng thép, năm 2020, xuất khẩu sắt thép của Việt Nam đạt 9,8 triệu tấn. Trong 5 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu sắt thép tiếp tục tăng cả về số lượng và kim ngạch (đạt 4,85 triệu tấn, tăng 60% so với cùng kỳ năm ngoái; kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6 tỷ USD, tăng 113% so với cùng kỳ). Năm 2020, nhập khẩu sắt thép đạt 13,3 triệu tấn.

Trong 5 tháng đầu năm nhập khẩu sắt thép tăng cả về số lượng và kim ngạch, kim ngạch nhập khẩu đạt 4,79 tỷ USD, tăng 39% so với cùng kỳ.

Thanh Hương
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục