Minh bạch thông tin: Điều kiện cần cho lộ trình nâng hạng thị trường

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Để được nâng hạng lên thị trường mới nổi (emerging market), Việt Nam cần đáp ứng những tiêu chuẩn cao hơn của các tổ chức này, mà một trong những tiêu chí được các tổ chức định hạng rất quan tâm là minh bạch thông tin. Đây vẫn là một điểm nghẽn cần sớm được giải quyết để đạt mục tiêu nâng hạng thị trường trong năm 2025.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị ngành chứng khoán đầu năm 2024 với những chỉ đạo rất cụ thể, quyết liệt về lộ trình nâng hạng thị trường. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị ngành chứng khoán đầu năm 2024 với những chỉ đạo rất cụ thể, quyết liệt về lộ trình nâng hạng thị trường.

Tác động của việc được nâng hạng đối với thị trường chứng khoán Việt Nam

Giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán đang là vấn đề nhận được sự quan tâm của cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước hiện nay.

Phân hạng thị trường của FTSE Russell và MSCI (hai tổ chức xếp hạng uy tín hàng đầu hiện nay) là cơ sở tham chiếu đánh giá vị thế một quốc gia, thị trường chứng khoán và doanh nghiệp trong mắt các nhà đầu tư quốc tế và có ảnh hưởng lớn tới các chỉ số tiêu chuẩn toàn cầu: (i) Chỉ số của FTSE Russell được sử dụng bởi 94/100 nhà quản lý tiền tệ lớn nhất thế giới (theo xếp hạng P&I), với quy mô tài sản 5.100 tỷ USD. Có hai đợt đánh giá trong năm vào tháng 3 và tháng 9; (ii) Chỉ số của MSCI được sử dụng bởi 98/100 nhà quản lý tiền tệ lớn nhất thế giới với quy mô tài sản 14.900 tỷ USD. Có 1 đợt đánh giá vào tháng 6 hàng năm.

Nếu được các tổ chức này nâng hạng lên thành thị trường mới nổi, tác động rõ ràng nhất là thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ thu hút được dòng vốn lớn hơn, ổn định và đa dạng hơn từ những nhà đầu tư nước ngoài.

Theo ước tính của Công ty Chứng khoán BIDV (BSC), sẽ có thêm khoảng 1,5 tỷ USD từ các quỹ đầu tư nước ngoài chảy vào thị trường nếu Việt Nam được nâng hạng lên thị trường mới nổi thứ cấp. Bên cạnh các quỹ đầu tư, thị trường được nâng hạng cũng sẽ giúp Việt Nam thu hút được thêm những đối tác đầu tư tài chính hay đầu tư chiến lược, qua đó giúp thúc đẩy quá trình cổ phần hóa cũng như cải thiện năng lực của các doanh nghiệp trên thị trường.

Bên cạnh đó, việc thực hiện các tiêu chí để nâng hạng sẽ giúp cải cách thể chế, hoàn thiện thị trường, thúc đẩy các doanh nghiệp và thị trường tài chính phát triển. Theo đó, thị trường chứng khoán phải cải thiện nhiều điều kiện: tính minh bạch thông tin, khung thể chế, cơ chế, điều kiện giao dịch thị trường…

Trong quá trình xem xét nâng hạng, sự tư vấn, hỗ trợ của các tổ chức xếp hạng cũng giúp các nhà quản lý khắc phục được những hạn chế, qua đó thúc đẩy sự hiệu quả trong hoạt động. Việc thị trường chứng khoán phát triển cũng sẽ giúp hệ thống tài chính Việt Nam phát triển đồng đều hơn, cân bằng hơn, các doanh nghiệp cũng sẽ có kênh huy động vốn, nhà đầu tư có thêm kênh đầu tư trung - dài hạn đáng tin cậy, tạo động lực tăng trưởng kinh tế nói chung.

Ngoài ra, đây cũng là một điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu phát triển một trung tâm tài chính tầm cỡ quốc tế tại TP.HCM.

Tuy nhiên, thị trường chứng khoán được nâng hạng cũng có một số rủi ro. Dòng vốn ngoại đi vào thị trường sẽ giúp thị trường phát triển mạnh mẽ trong ngắn hạn, nhưng cũng có thể dẫn đến một số tác động tiêu cực khi xảy ra việc các nhà đầu tư ngoại rút vốn mạnh. Điều này có thể được thấy từ bài học của Thái Lan, các nhà đầu tư tháo chạy (capital flight) khỏi thị trường khi những tín hiệu tiêu cực xuất hiện (dấu hiệu của bong bóng kinh tế, dự trữ ngoại hối cạn kiệt dẫn đến việc đồng Baht bị thả nổi so với đồng USD…), dẫn đến sự lao dốc của thị trường chứng khoán và lan ra thành cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1998.

Việt Nam hiện nay có nhiều điều kiện để hạn chế tình trạng như đã xảy ra ở Thái Lan (kinh tế vĩ mô ổn định, các chính sách an toàn vĩ mô được chú trọng, thị trường vốn được kiểm soát…), nhưng đây sẽ là một vấn đề cần được quan tâm.

Trong ngắn hạn, việc được nâng hạng lên thị trường mới nổi có thể khiến dòng vốn nước ngoài rời khỏi Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam là thị trường có tỷ trọng lớn nhất trong chỉ số thị trường cận biên của MSCI với 28,75%, dẫn đến việc một lượng lớn tài sản được quản lý bởi các quỹ đầu tư vào thị trường cận biên dành cho Việt Nam.

Khi được nâng hạng, Việt Nam sẽ chỉ chiếm một phần nhỏ của chỉ số thị trường mới nổi. Do đó, lượng vốn từ các quỹ đầu tư vào những thị trường mới nổi chảy vào Việt Nam có thể sẽ không bù đắp được lượng vốn rời đi đến các thị trường cận biên khác. Tình trạng này có thể làm thị trường biến động trong ngắn hạn.

Vai trò của minh bạch thông tin trong đánh giá của các tổ chức định hạng

Theo tiêu chí của FTSE Russell: Bảng đánh giá thị trường của FTSE đã có nhiều thay đổi theo thời gian, nhưng minh bạch thông tin luôn là một yếu tố được sử dụng để đánh giá chất lượng của thị trường. Đây là một yếu tố bắt buộc để một thị trường được FTSE xếp hạng (tất cả các thị trường, từ cận biên đến phát triển đều cần điểm đạt của yếu tố này). Mức độ minh bạch của thị trường Việt Nam được đánh giá Đạt báo cáo tháng 3/2024.

Nguồn: Báo cáo xếp hạng tháng 3/2024 của FTSE Russell; Viện ĐTNC BIDV tổng hợp.

Nguồn: Báo cáo xếp hạng tháng 3/2024 của FTSE Russell; Viện ĐTNC BIDV tổng hợp.

Theo tiêu chí của MSCI: Theo MSCI, yếu tố “luồng thông tin” được định nghĩa là “Tiết lộ kịp thời, đầy đủ các thông tin thị trường chứng khoán (ví dụ: cảnh báo giao dịch chứng khoán, tin tức công ty, thông tin thả nổi, thông tin cổ tức) bằng tiếng Anh và theo các điều khoản thương mại hợp lý”. Luồng thông tin tốt có vai trò quan trọng để đảm bảo quyền lợi của cổ đông, bởi nó giúp đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn và cải thiện hiệu quả chung của thị trường.

Để đánh giá yếu tố “luồng thông tin”, MSCI sẽ xem xét về chất lượng, tính kịp thời, khả năng sử dụng tiếng Anh, chi phí tiếp cận thông tin. Với thị trường Việt Nam, đây là một trong những yếu tố chưa đáp ứng được yêu cầu để nâng hạng thành thị trường mới nổi. Trong báo cáo tháng 6/2023, MSCI nhận xét rằng: “Thông tin thị trường chứng khoán không phải lúc nào cũng được công bố bằng tiếng Anh và đôi khi không đủ chi tiết”, cùng với đó, “có nhiều văn bản pháp luật liên quan đến thị trường chứng khoán chưa có bản tiếng Anh để các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận”.

Nguồn: Báo cáo xếp hạng tháng 6/2023 của MSCI; Viện ĐTNC BIDV tổng hợp

Nguồn: Báo cáo xếp hạng tháng 6/2023 của MSCI; Viện ĐTNC BIDV tổng hợp

Như vậy, có thể thấy rằng minh bạch thông tin có vai trò quan trọng trong việc nâng hạng thị trường chứng khoán, bởi cả 2 tổ chức định hàng lớn đều đưa yếu tố này vào trong bảng đánh giá thị trường. Về vấn đề này, Việt Nam hiện đã được FTSE đánh giá đạt yêu cầu, nhưng MSCI vẫn đánh giá ở mức chưa đạt. Do vậy, cải thiện minh bạch thông tin sẽ giúp Việt Nam được nâng hạng theo đánh giá của MSCI.

Thực trạng tiêu chuẩn về công bố thông tin tại Việt Nam

Hiện nay, các thông tin mà doanh nghiệp đại chúng phải công bố được phân thành 2 nhóm.

Nhóm 1 bao gồm các báo cáo và công bố thông tin định kỳ, bất thường, theo yêu cầu và công bố thông tin khác quy định tại Thông tư 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ Tài chính về hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán (căn cứ Luật Chứng khoán 2019).

Nhóm 2 gồm các báo cáo và công bố thông tin liên quan đến chào bán, phát hành chứng khoán theo quy định tại Nghị định 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, Thông tư 118/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về chào bán, phát hành chứng khoán, chào mua công khai, mua lại cổ phiếu, đăng ký công ty đại chúng và hủy tư cách công ty đại chúng.

Công tác thực hiện công bố thông tin tại Việt Nam đã có nhiều cải thiện. Về phía các cơ quan quản lý, việc công bố thông tin bằng tiếng Anh đã được áp dụng đối với Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán (dù không bắt buộc). Về phía doanh nghiệp, các doanh nghiệp trong nhóm VN30 đã thực hiện công bố thông tin bằng tiếng Anh tương đối đầy đủ. Việc áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) bước đầu được nhiều doanh nghiệp niêm yết triển khai và ngày càng phổ biến.

Tuy nhiên, vẫn còn các mặt hạn chế: đa số các doanh nghiệp niêm yết quy mô vừa và nhỏ chưa có ý thức tự nguyện và việc chấp hành chưa cao khi thực hiện công bố thông tin bằng tiếng Anh (hiện chưa có quy định yêu cầu bắt buộc công bố thông tin bằng tiếng Anh mà chủ yếu dựa vào sự tự nguyện của doanh nghiệp), hay áp dụng chuẩn mực kế toán IFRS. Một số công ty công khai thông tin mang tính hình thức, thông tin không đầy đủ, thậm chí đôi khi còn thiếu chính xác.

Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, hiện chỉ khoảng 10% các công ty niêm yết công bố thông tin và báo cáo tài chính bằng tiếng Anh và đa phần các công ty này là các công ty có vốn hóa lớn. Các thông tin khác đa phần được công bố bằng tiếng Việt mà chưa được công bố bằng tiếng Anh.

Theo đánh giá của các chuyên gia, nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư nước ngoài nói riêng còn khó khăn khi tiếp cận thông tin về doanh nghiệp theo các tiêu chí quản trị, minh bạch, công bố thông tin tốt… Việc công bố các chỉ tiêu hiệu quả phi tài chính, trong đó có dữ liệu ESG (Environmental, Social and Governance - Môi trường, Xã hội và Quản trị) lại chưa được thực hiện một cách đầy đủ và thực chất.

Nguyên nhân của tình trạng trên được đánh giá bắt nguồn từ: (i) nhiều quy định về công bố thông tin doanh nghiệp niêm yết hiện còn mang tính khuyến khích mà chưa mang tính bắt buộc; (ii) sự ràng buộc trách nhiệm đối với người công bố thông tin, lãnh đạo doanh nghiệp, phải bảo đảm tính chính xác của nội dung thông tin khi chuyển ngữ cũng như tuân thủ đúng thời gian công bố trong khi năng lực và chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp còn hạn chế; (iii) các thông lệ về quản trị doanh nghiệp như Bộ nguyên tắc quản trị công ty (CG Code) do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và IFC, dù đã ban hành từ năm 2019 nhưng nhiều doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ vẫn chưa hình thành được hệ thống quản trị theo quy chuẩn, thực chất, dẫn tới việc khó khăn trong đáp ứng yêu cầu về công bố thông tin; (iv) tâm lý e ngại công bố thông tin minh bạch vẫn còn tồn tại ở một bộ phận doanh nghiệp niêm yết.

Những yêu cầu khác để thị trường Việt Nam được nâng hạng

Bên cạnh vấn đề về minh bạch thông tin, trong kỳ đánh giá tháng 6/2023, MSCI nêu ra 8 tiêu chí khác mà thị trường chứng khoán Việt Nam chưa đáp ứng gồm: (1) Giới hạn sở hữu nước ngoài; (2) “room” khối ngoại còn lại; (3) Quyền bình đẳng cho nhà đầu tư nước ngoài; (4) Mức độ tự do hóa thị trường ngoại hối; (5) Thanh toán bù trừ; (6) Khả năng chuyển nhượng không qua sàn; (7) Cho vay chứng khoán; và (8) Bán khống (xem Bảng 2).

Tám tiêu chí này, cùng với tiêu chí “luồng thông tin” đã được đề cập trong báo cáo tháng 6/2021 và tháng 6/2022, cho thấy Việt Nam vẫn chưa hề có sự cải thiện về những yêu cầu của MSCI trong 2 năm vừa qua.

Bên cạnh đó, Báo cáo của MSCI cũng chỉ ra điểm cần cải thiện là vấn đề Đăng ký tài khoản: Hiện nay, các nhà đầu tư bắt buộc phải đăng ký giao dịch và việc thiết lập tài khoản cần có sự chấp thuận của Trung tâm Lưu ký chứng khoán.

Với tiêu chí của FTSE Russel, triển vọng nâng hạng của thị trường Việt Nam khả quan hơn khi đã đáp ứng được 7/9 tiêu chí, với tiêu chí không đạt là Chuyển giao đối ứng thanh toán - DvP, hiện được đánh giá là 'Hạn chế' - Restricted), do nhà đầu tư cần có tiền trong tài khoản trước khi đặt lệnh giao dịch (khác với thông lệ là cần có tiền khi thực hiện giao dịch), và tiêu chí Chi phí xử lý giao dịch thất bại không được chấm điểm (do nhà đầu tư cần có tiền trước khi đặt lệnh nên không xảy ra giao dịch thất bại nên không có cơ sở để đánh giá, chấm điểm).

Ngoài ra, báo cáo vào tháng 3/2023 của FTSE cũng chỉ ra rằng cần phải cải tiến quy trình đăng ký tài khoản mới vì quy trình hiện tại khiến các nhà đầu tư nước ngoài mất nhiều thời gian để mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại Việt Nam. Việt Nam cũng chưa có một cơ chế hiệu quả nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch giữa các nhà đầu tư nước ngoài đối với những chứng khoán đã hoặc sắp đạt đến giới hạn sở hữu nước ngoài.

Giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán

Để hiện thực hóa mục tiêu nâng hạng trước năm 2025 của Chính phủ theo Đề án "Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025" (được phê duyệt tại Quyết định 242/2019/QĐ-TTg ngày 28/2/2019), các cơ quan quản lý cần phải giải quyết các vấn đề được nêu ở trên. Với yêu cầu về minh bạch thông tin, một số giải pháp cần quan tâm thực hiện là:

Các quy định, văn bản pháp lý về thị trường chứng khoán cần được công bố bằng tiếng Anh để các nhà đầu tư nước ngoài có thể dễ dàng tiếp cận:

Xây dựng quy định yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết thực hiện công bố thông tin và báo cáo tài chính bằng tiếng Anh song song với tiếng Việt để đảm bảo các nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận thông tin một cách kịp thời. Về vấn đề này, Bộ Tài chính tháng 3/2024 đã chính thức lấy ý kiến về việc sửa đổi Thông tư 96/2020-BTC nhằm đáp ứng tiêu chí nâng hạng của tổ chức xếp hạng liên quan tới công bố thông tin. Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất thực hiện xác định danh sách công ty đại chúng bắt buộc tuân thủ việc công bố thông tin bằng tiếng Anh trong ngắn hạn và dài hạn.

Phân loại mức độ toàn diện của thông tin cần được công bố đối với các công ty đại chúng quy mô nhỏ và các công ty đại chúng quy mô lớn.

Lộ trình triển khai dự kiến yêu cầu công ty niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn công bố thông tin định kỳ bằng tiếng Anh kể từ ngày 01/01/2025 và công bố thông tin bất thường, theo yêu cầu bằng tiếng Anh kể từ ngày 01/01/2026. Công ty đại chúng còn lại sẽ công bố thông tin định kỳ bằng tiếng Anh kể từ ngày 01/01/2027 và công bố thông tin bất thường, theo yêu cầu bằng tiếng Anh kể từ ngày 01/01/2028.

Đây là quy định cần thiết để đảm bảo khả năng được nâng hạng của thị trường, và cần được ban hành sớm để các doanh nghiệp niêm yết, đặc biệt là doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa có thời gian để chuẩn bị.

Các doanh nghiệp niêm yết cần tuân thủ tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) để nâng cao chất lượng của thông tin được công bố. Theo đó, Bộ Tài chính cũng cần có hướng dẫn và lộ trình đáp ứng cụ thể.

Chủ trương và yêu cầu về việc doanh nghiệp sau cổ phần hóa cần niêm yết trên sàn chứng khoán trong vòng 12 tháng cần nghiêm túc triển khai thực hiện.

Bên cạnh việc cải thiện tính minh bạch thông tin, Việt Nam cũng cần xử lý nhiều vướng mắc khác để thực hiện mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán. Đầu tiên và quan trọng nhất sẽ là vấn đề thanh toán, nhất là việc loại bỏ yêu cầu nhà đầu tư phải có sẵn tiền ở thời điểm đặt lệnh (pre-funding, theo Thông tư 120/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính), thay vào đó là yêu cầu có tiền ở thời điểm nhận cổ phiếu (T+2), bởi đây là tiêu chí được cả FTSE Russell và MSCI đặc biệt quan tâm trong các báo cáo đánh giá gần nhất.

Việc đáp ứng các tiêu chí nâng hạng khác của MSCI khó khăn hơn nhiều, bởi Việt Nam còn nhiều yếu tố cần cải thiện.

Trong ngắn hạn, ngoài việc xử lý vấn đề về thanh toán nêu trên, một số giải pháp khác cần được quan tâm yêu cầu sớm thực hiện bao gồm: Cải thiện khả năng chuyển nhượng thông qua việc cắt giảm thủ tục (hiện nay giao dịch ngoài sàn và chuyển nhượng hiện vật cần được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận trước); Nghiên cứu và sớm triển khai các sản phẩm, dịch vụ như cho vay chứng khoán và bán khống trên thị trường Việt Nam.

Trong dài hạn, Việt Nam sẽ cần giải quyết những tiêu chí được MSCI quan tâm, nhất là giới hạn sở hữu nước ngoài, “room” nước ngoài còn lại, hay mức độ tự do hóa thị trường ngoại hối. Đây là những vấn đề liên quan đến các quy định pháp luật cũng như tạo ra nhiều thay đổi trong việc quan điểm hội nhập và điều hành vĩ mô của các cơ quan quản lý. Do đó, việc hiện thực hóa mục tiêu nâng hạng thị trường chứng khoán lên “mới nổi” sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước và bộ, ngành, địa phương liên quan.

TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục