Ông nhận định thế nào về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024?
Quý I/2024, kinh tế Việt Nam thể hiện đà tăng trưởng và khả năng phục hồi tích cực. Tuy nhiên, kết quả quý I có thể chưa phản ánh được nhiều về triển vọng tăng trưởng cả năm vì tăng trưởng quý I là 5,66% trên nền cơ sở thấp của quý I/2023.
Hai yếu tố động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian còn lại của năm 2024 là các nền kinh tế lớn có thể cắt giảm lãi suất, thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, từ đó hỗ trợ xuất khẩu và sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc - đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều thách thức hiện hữu như lạm phát dai dẳng, môi trường lãi suất cao, trong khi bất ổn chiến tranh và căng thẳng địa chính trị giữa các cường quốc có thể làm gián đoạn thương mại và giá cả hàng hóa toàn cầu.
Theo ông, xu hướng lạm phát của Việt Nam sẽ ra sao trong năm nay?
Năm 2024, lạm phát dự báo tiếp tục xu hướng tăng nhẹ trong bối cảnh các cấu phần chính trong rổ hàng hóa tính toán chỉ số giá tiêu dùng, như giá nhiên liệu, lương thực - thực phẩm, chi phí y tế và giáo dục, tỷ giá…, đang tiếp tục chịu áp lực tăng. Đồng thời, các diễn biến nóng trên toàn cầu như xung đột chiến tranh, rủi ro vận tải biển, biến đổi khí hậu là các nguyên nhân chính gây áp lực lên lạm phát.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có một số thuận lợi trong việc kiểm soát lạm phát từ cả cơ cấu tự chủ hàng hóa thiết yếu sản xuất trong nước và kinh nghiệm phối hợp các chính sách tiền tệ, tài khóa. Chúng tôi dự báo, lạm phát quý II tiếp tục dao động trong khoảng 3,5-4% và lạm phát cả năm ở mức 3,8%.
Với tình hình lạm phát như trên, lãi suất tiết kiệm sẽ diễn biến ra sao?
Mặt bằng lãi suất tiết kiệm đang ở mức thấp kỷ lục và tôi khá chắc chắn là đã chạm đáy trong tổng thể đánh giá mức lợi tức kênh đầu tư ít rủi ro nhất này so với lạm phát, tỷ giá và nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Dù hoạt động kinh tế đã cải thiện trong quý I/2024, đặc biệt là sự phục hồi trong hoạt động ngoại thương, vẫn cần thêm số liệu rõ ràng để khẳng định xu hướng tăng trưởng vững chắc, từ đó hỗ trợ doanh nghiệp và nhà đầu tư mạnh dạn tiếp cận tín dụng, mở rộng đầu tư sản xuất và tiêu dùng.
Nhìn vào các dữ liệu trước dịch Covid-19, cũng cho thấy rằng, tín dụng trong nước thường có xu hướng tăng rất chậm trong quý I và chỉ bắt đầu hồi phục vào quý II hàng năm. Từ đó, chúng tôi cho rằng, lãi suất tiết kiệm có thể tăng 0,5-1% trên các kỳ hạn khác nhau từ tháng 5 đến hết năm 2024.
Tỷ giá liệu còn áp lực trong thời gian tới khi lộ trình giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chậm lại?
Việc lãi suất USD neo ở mức rất cao, trên 5%, gây áp lực mất giá lên lên hầu các đồng tiền chính trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có VND. Khi lãi suất USD ở mức cao, thị trường luôn có sự dịch chuyển dòng vốn ngược lại Mỹ để đầu tư vào các tài sản USD như tiền gửi USD, chứng khoán niêm yết tại Mỹ, giấy tờ có giá…
Nhìn vào dữ liệu của các đồng tiền từ các nền kinh tế lớn và quan trọng nhất trong hoạt động thương mại, đầu tư toàn cầu, sẽ thấy mức giảm giá từ đầu năm 2024 đến nay của VND nằm trong xu thế chung và ở mức trung bình. UOB Việt Nam dự báo, VND và các đồng tiền khác có khả năng tăng giá trở lại so với USD trong nửa sau 2024, khi lãi suất USD có thể được cắt giảm trong khi lãi suất VND hầu như không có khả năng giảm thêm và sẽ tăng trở lại.
Với kỳ vọng cắt giảm lãi suất của Fed đang giảm dần, tỷ giá có thể duy trì ở mức cao thời gian dài hơn. Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp thị trường ngoại hối trong tháng 4/2024 và điều này có thể giúp kiểm soát biến động. Điều hành lãi suất VND ra sao để hài hòa với lãi suất USD neo cao, đi cùng nhiệm vụ thúc đẩy tín dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, tỷ giá… là bài toán phức tạp.
Ngoài những trở ngại bên ngoài trong ngắn hạn, chúng tôi kỳ vọng VND sẽ nhận được sự hỗ trợ từ các yếu tố cơ bản vững chắc và sự phục hồi tiếp theo của nhân dân tệ. Dự báo VND/USD cập nhật của UOB Việt Nam là 25.600 VND/USD trong quý II/2024, 25.100 VND/USD trong quý III/2024, 24.800 VND/USD trong quý IV/2024 và 24.600 VND/USD trong quý I/2025.