Nhân dịp đầu Xuân, ông Trần Đình Cường, Chủ tịch Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam đã chia sẻ với Đầu tư Chứng khoán những quan sát và khuyến nghị của ông cho chặng đường sắp tới của doanh nghiệp nói riêng, đất nước nói chung.
Bước lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị
Tại Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Việt Nam có tầm nhìn đến năm 2045 sẽ “thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số”, có “tỷ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương các nước phát triển, tối thiểu có 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến”… Ông nghĩ sao về các mục tiêu này và theo ông, để đạt được chúng ta cần phải làm gì?
Tôi đã đọc và thấy rằng, Nghị quyết 57 xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là “điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới”.
Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu “xóa bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Tôi vô cùng tâm đắc với định hướng này.
Một điểm khiến tôi đặc biệt chú ý là Nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2030, kinh phí cho nghiên cứu và phát triển (R&D) sẽ đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%.
Tăng đầu tư cho R&D và chú ý đến vai trò của khối tư nhân trong công cuộc này là vô cùng đúng đắn. Nếu không có R&D, chúng ta sẽ mãi mãi đi sau, mãi mãi không bao giờ làm chủ được công nghệ. Các quốc gia phát triển trên thế giới đều đầu tư lớn vào R&D.
Theo số liệu từ UNESCO, năm 2021, Israel đứng đầu thế giới về tỷ lệ đầu tư cho R&D trên GDP, xấp xỉ 5,8%; kế đến là Hàn Quốc (4,9%) và Mỹ (3,5%). Trong khi đó, Việt Nam đứng thứ 56, với mức đầu tư khoảng 0,42%. Đây là một tỷ lệ rất khiêm tốn, ngay cả khi so với các nước trong khu vực như Singapore (xấp xỉ 2,2%), Thái Lan (xấp xỉ 1,2%).
Về số nhà nghiên cứu trên một triệu dân, Việt Nam đứng thứ 57/91 quốc gia, vùng lãnh thổ mà UNESCO có dữ liệu, với khoảng 780 người. Trong khi đó, con số này tại Hàn Quốc là 9.087 người.
Nhiều nước khác trong khu vực như Singapore, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc cũng có số nhà nghiên cứu cao hơn chúng ta. Nghị quyết 57 có đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ nâng số nhà nghiên cứu trên một triệu dân lên khoảng 1.200 người, dù là mức tăng đáng kể nhưng vẫn còn thấp so với thế giới.
Tôi nghĩ, đây là những con số đáng quan tâm nếu chúng ta muốn tạo nên cái gọi là “sự thần kỳ Đông Á” như Hàn Quốc, Nhật Bản đã làm. Sự tham gia của khu vực tư nhân cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì R&D của họ gắn với sản phẩm, với thị trường.
Điều gì khiến ông cho rằng, đầu tư vào R&D nên là một trọng tâm của Việt Nam trên chặng đường phát triển tiếp theo?
Như đã nói, nếu không có R&D, chúng ta không bao giờ có gì đó của riêng mình và rất khó để bước lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị, chưa nói đến tham vọng dẫn dắt thị trường.
Trong thập kỷ gần đây nhất, chúng ta đã chứng kiến những “ông lớn” công nghệ một thời thống lĩnh thị trường đã hoàn toàn bị thay thế vì không có ý tưởng mới. Ngược lại, có những cái tên mới nổi lên với tốc độ và quy mô nhanh chưa từng có.
Tôi lấy ví dụ, doanh nghiệp lớn nhất Hàn Quốc hiện nay đi lên từ một công ty thương mại nhỏ, bán cá khô và mì. Trung tâm R&D của họ được thành lập vào năm 1987, với hai mục tiêu chính là nghiên cứu công nghệ ứng dụng nhằm phát triển sản phẩm và công nghệ cơ bản để tạo ra các động lực tăng trưởng dài hạn, cạnh tranh toàn cầu.
Với chiến lược tạo ra các công nghệ hàng đầu thế giới, ở mỗi dự án R&D, họ sẽ đánh giá xem công nghệ hàng đầu thế giới hiện nay là gì, ai sở hữu và đặt ra mục tiêu bắt kịp hoặc phát triển tốt hơn.
Những mục tiêu đẳng cấp thế giới này đã khơi dậy thách thức nghiên cứu và động lực giúp họ đạt được kết quả vượt bậc. Họ chiêu mộ các tài năng vượt qua biên giới Hàn Quốc, đến các trường đại học hàng đầu thế giới và tuyển dụng những sinh viên xuất sắc nhất.
Kết quả, năm 2024, doanh nghiệp này đứng thứ hai thế giới về số bằng sáng chế, với khoảng gần 93.000 bằng đang có hiệu lực. Họ cũng là một trong những cái tên giá trị nhất thế giới, chiếm khoảng 20 - 22% GDP và đóng góp một nửa vào tăng trưởng của Hàn Quốc năm 2024. Việt Nam cần có những doanh nghiệp như vậy.
Theo Bảng xếp hạng 2.000 doanh nghiệp đứng đầu thế giới về đầu tư vào R&D của Ủy ban Châu Âu (EC) công bố năm 2024, Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế đứng đầu, chiếm đến 60% tổng số doanh nghiệp và 60% tổng số đầu tư - khoảng gần 748/1.257 tỷ Euro. Tiếp theo đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Đức. Việt Nam mới chỉ có một doanh nghiệp nằm trong Top 2.000, với mức đầu tư gần 100 triệu Euro.
Nghị quyết 57 đặt mục tiêu đến năm 2030, 60% của mức 2% GDP đầu tư cho R&D đến từ doanh nghiệp tư nhân, ước khoảng 9 tỷ USD, tức là mức tăng khá lớn so với hiện tại. Để đạt được mục tiêu này, cần có bộ chính sách và giải pháp ưu đãi quyết liệt từ Chính phủ về nội dung, công nghệ, hạ tầng, thủ tục, quy trình... Hiện chính phủ các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản đã có những chính sách hỗ trợ hàng tỷ USD cho doanh nghiệp của họ đầu tư vào công nghệ cao.
Lưu ý, đầu tư chỉ là điều kiện cần, chứ không phải điều kiện đủ. Điều cốt yếu là phải đầu tư vào tìm giải pháp cho vấn đề xã hội đang cần. Tuy nhiên, nếu không bắt đầu, chúng ta sẽ không bao giờ đi đến đích.
Quyết tâm tạo sự khác biệt
Gần đây chúng ta nói rất nhiều đến “kỷ nguyên vươn mình” của đất nước. Quan sát các diễn biến kinh tế - xã hội cũng như diễn biến thị trường thời gian gần đây, có điều gì mang đến cho ông sự lạc quan?
Muốn vươn mình thì phải có cách làm khác biệt, phải đột phá. Nếu chúng ta cứ làm như trước đây thì trong viễn cảnh tốt nhất cũng chỉ có thể tiếp tục tiến về phía trước, khó có thể là một sự “vươn mình”. Tôi cho rằng, những nỗ lực sắp xếp đầu mối, tinh giản bộ máy gần đây là một tín hiệu cho thấy quyết tâm của Việt Nam trong việc tạo ra sự khác biệt.
Tôi hy vọng, những nỗ lực này sẽ giải quyết được một số nút thắt vẫn còn tồn tại, dù các doanh nghiệp đã kiến nghị trong nhiều năm qua, đó là môi trường kinh doanh thông thoáng, thủ tục hành chính tinh giản, thời gian giải quyết thủ tục không bị kéo dài, các chính sách rõ ràng và việc thực thi chính sách minh bạch. Tất cả những kiến nghị này đều hàm ý hướng đến bộ máy hành chính công hoạt động hiệu quả hơn, năng suất cao hơn và tiến tới sáng tạo hơn.
Thêm vào đó, tinh gọn bộ máy cũng giúp tiết kiệm ngân sách để đầu tư đúng mục tiêu hơn, trước mắt là tăng lương cho các công chức, viên chức để thu hút và giữ chân người tài trong hệ thống công. Chúng ta không thiếu người tài và cũng không thiếu người có khát vọng cống hiến. Vấn đề là phải có cơ chế để thu hút và giữ chân họ, tạo động lực cho họ. Một đất nước sẽ không thể phát triển được nếu thiếu người tài trong hệ thống công.
Ông có đề cập đến cải thiện năng suất lao động, trước hết là trong hệ thống công. Đây là việc chúng ta đã nhắc đến trong nhiều năm, nhưng dường như sự cải thiện chưa đáng kể. Theo ông, đâu là điểm mấu chốt mà nếu giải quyết được sẽ giúp tạo ra khác biệt đáng kể về năng suất?
Tôi nghĩ là số hóa. Máy móc lợi thế hơn rất nhiều về tốc độ, quy mô, độ bền bỉ, độ chính xác, minh bạch trong những công việc lặp đi lặp lại. Đây cũng là điều Chính phủ đang và sẽ tiếp tục thực hiện. Vấn đề là tốc độ.
Nhìn ra thế giới, nhiều quốc gia đã cải thiện hệ thống công với trọng tâm là số hóa. Gần chúng ta nhất là Singapore. Năm 2014, họ đã khởi xướng sáng kiến Smart Nation (quốc gia thông minh) với ba trụ cột chính: kinh tế số, chính phủ số và xã hội số. Mục tiêu của họ rất rõ ràng, đó là cải thiện cuộc sống của người dân và tạo ra các cơ hội kinh tế mới.
Một trong những trọng tâm của sáng kiến này là chuyển đổi số khu vực công nhằm tái cấu trúc quy trình làm việc, tái cấu trúc hạ tầng công nghệ và chuyển đổi dịch vụ, không chỉ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp, mà còn để thay đổi cách làm việc của các cán bộ, công chức.
Ví dụ đơn giản là người dân có thể thực hiện thủ tục hành chính tại nhà một cách nhanh chóng, đơn giản, thông qua hệ thống dịch vụ công. Việc đăng ký thành lập doanh nghiệp được thực hiện online, chỉ mất 10 - 15 phút, không phải tiếp xúc với cán bộ hành chính hay phải bổ sung giấy tờ nhiều lần. Việc chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan được thực hiện thông suốt, vừa giúp chính quyền quản lý hiệu quả hơn vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Tôi cho rằng, số hóa có thể cải thiện đáng kể việc quản trị nhà nước cũng như quản trị doanh nghiệp. Số hóa cũng là nền tảng cho tự động hóa và ứng dụng AI.
Mục tiêu cuối cùng của chúng ta vẫn sẽ là cải thiện năng suất, trong cả hệ thống công cũng như toàn xã hội. Tôi hy vọng, với nỗ lực cải cách bộ máy lần này, cùng với tiết kiệm ngân sách, Việt Nam sẽ tạo ra cơ chế thúc đẩy được sự sáng tạo của đội ngũ công chức.
Đoàn kết để phát triển
Bản thân ông cũng là một nhà quản lý, người sử dụng lao động. Theo ông, Việt Nam gặp thách thức gì trong đào tạo nguồn lao động chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp mới ở nấc thang cao hơn của chuỗi cung ứng?
Về phẩm chất, năng lực, tôi thấy lao động của chúng ta không kém gì các nước khác. Các bạn trẻ thông minh, ham học hỏi, thích nghi nhanh, có sự sáng tạo, linh hoạt và đa phần có tinh thần trách nhiệm cao.
Tất nhiên, vẫn có những nhược điểm như thiếu hụt kỹ năng chuyên môn sâu, kỹ năng mềm như giao tiếp, quản lý thời gian, giải quyết xung đột. Đặc biệt, tôi nghĩ, chúng ta cần cải thiện tính kỷ luật và tính chuyên nghiệp, bao gồm cả sự chủ động trong công việc và việc am hiểu quy trình. Đây là những vấn đề cần được giải quyết thông qua giáo dục, đào tạo, hội nhập quốc tế.
Để đạt được thu nhập cao, chúng ta buộc phải tăng năng suất, trong đó nâng cao kỹ năng của người lao động là một trong các giải pháp cốt lõi.
Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động của Việt Nam năm 2024 đạt khoảng 221,9 triệu đồng/lao động (tương đương 9.182 USD), là mức năng suất thấp và có khoảng cách khá xa với nhiều nước trong khu vực.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế, ở Đông Nam Á, năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia, Myanmar, Lào và mới bằng 13% năng suất của Singapore.
Không chỉ năng suất thấp, tốc độ tăng năng suất của chúng ta cũng chưa cao. Tất nhiên, sản xuất nông nghiệp, làm thủ công hay những ngành thâm dụng lao động sẽ không thể có năng suất cao.
Việt Nam thu hút FDI cũng với mục tiêu tăng năng suất thông qua thu hút các ngành công nghệ cao. Tuy vậy, số liệu cho thấy, giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng năng suất lao động khu vực FDI giảm 1,8%/năm.
Nguyên nhân chủ yếu, theo Tổng cục Thống kê, là do các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có chiến lược lựa chọn nguồn nhân công giá rẻ với các quy trình sản xuất giản đơn, giá trị gia tăng thấp.
Đây là điểm mà chúng ta muốn thay đổi. Muốn thu hút đầu tư công nghệ cao, kinh tế số, kinh tế xanh, thì chúng ta phải có các chính sách hấp dẫn khác hơn là lao động giá rẻ, ưu đãi đất đai. Đồng thời, chúng ta cũng phải xây dựng bằng được nền móng vững chắc cho hệ sinh thái xanh, số hóa.
Đồng hành với cộng đồng doanh nghiệp từ đầu những năm 1990 đến nay, ông có cho rằng, đây là thời điểm mà chúng ta có thể tạo ra một sự cộng hưởng của Nhà nước và doanh nghiệp để tạo ra một bước phát triển mới?
Tôi chưa bao giờ nghi ngờ về tinh thần doanh nhân, tinh thần khởi nghiệp của người Việt Nam. Nhìn ra ngoài phố, có thể thấy hoạt động buôn bán tấp nập từ sáng sớm đến tối khuya, đủ các mô hình.
Dù tỷ lệ thất nghiệp theo thống kê của chúng ta là bao nhiêu, chúng ta có thấy ai chơi không? Rất ít. Nếu không đi làm một cách chính thức, người ta sẽ bươn chải làm các công việc khác để tạo ra thu nhập.
Vấn đề là chúng ta phải vượt qua trào lưu, vượt qua mong muốn “đủ ăn”, để lớn lên, chuyên nghiệp hóa, cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nói đến câu chuyện toàn cầu, đến cuộc chơi lớn, thì khát vọng lớn và ý chí vượt qua cái thông thường chính là thứ chúng ta cần có.
Bên cạnh vấn đề năng suất còn thấp như đã phân tích, năng lực cạnh tranh của chúng ta cũng còn khoảng cách xa so với một số quốc gia trong khu vực. Giai đoạn 2018 - 2019, Việt Nam xếp thứ 67, trong khi Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore lần lượt xếp thứ 28, 13, 6 và 1 về chỉ số cạnh tranh quốc gia. Việt Nam vẫn ở mức thấp trên nấc thang giá trị.
Tôi kỳ vọng, chúng ta sẽ bước vào giai đoạn phát triển mới, có những đột phá trong giai đoạn tới. Đã có những dấu hiệu tích cực, nhưng để trở thành hiện thực vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
Trong quá trình làm việc, tôi đã được tiếp xúc với lãnh đạo nhiều doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam. Họ là đội ngũ doanh nhân rất đáng ngưỡng mộ, thành công từ nghèo khó, từ sản xuất nhỏ, vượt qua bao thách thức, chông gai nhưng vẫn luôn nỗ lực ngày đêm để chèo lái doanh nghiệp vươn tới những tầm cao mới, chinh phục thế giới.
Không một nền kinh tế lớn nào lại thiếu vắng các doanh nghiệp dân tộc lớn. Tôi trông đợi cộng đồng doanh nhân Việt Nam đoàn kết hơn để cùng phát triển mạnh mẽ, vươn mình thành các tập đoàn doanh nghiệp dân tộc khổng lồ, mang tầm vóc và sức cạnh tranh toàn cầu.