Khi sự thật được đặt ở thế đối diện
“Chưa bao giờ Việt Nam có không gian cải cách thuận lợi như bây giờ. Tôi xin phép sử dụng đúc kết này của TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), đưa báo cáo gửi Chính phủ. Chúng ta có cơ sở để tin vào điều này”.
TS. Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hào hứng chia sẻ với các chuyên gia kinh tế ngay sau khi Diễn đàn Kịch bản kinh tế Việt Nam lần thứ 17 (diễn ra vào tuần đầu tiên của tháng 1/2025) kết thúc.
Trước đó, Diễn đàn đã rất nóng khi rất nhiều giải pháp, khuyến nghị để Việt Nam tăng trưởng cao, ít nhất là 8% trong năm nay và hai con số trong khoảng 10, thậm chí 20 năm tới, được đặt ra thảo luận.
Không ít giải pháp truyền thống, như thúc đẩy đầu tư công, nhưng cũng có các cách làm khác, như đặt hàng doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước chi tiền, thay vì Nhà nước làm dự án rồi gọi thầu. Có một số giải pháp có thể xếp vào nhóm “khác thường”, như để có nguồn nhân lực tài năng, Bộ Giáo dục và Đạo tạo không cần quy định chuẩn chương trình đào tạo đại học nữa, mà áp dụng chuẩn quốc tế, dùng kiểm định quốc tế; học sinh đáp ứng điều kiện sẽ được hỗ trợ học phí từ quỹ học bổng do Nhà nước và doanh nghiệp đóng góp. Có cả đề nghị thí điểm chọn lãnh đạo địa phương là người có tố chất doanh nhân…
Có thể thấy, đích của các cuộc thảo luận chính sách lúc này là bàn cách làm để Việt Nam phải có mặt trong nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nhóm thu nhập cao vào năm 2040, chứ không còn là chuyện có làm được hay không.
Tất nhiên, vẫn còn những hoài nghi về tính khả thi của các mục tiêu, nhất là bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước chưa thuận như mong muốn, khu vực doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa thực sự hồi phục, tỷ lệ doanh nghiệp gia nhập thị trường so với doanh nghiệp rút lui vẫn thấp chưa từng có trong 10 năm qua...
“Khi Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã nhận diện thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn, sẵn sàng đối diện với sự thật, nhìn thẳng vào những điểm yếu kém, từ bỏ tư duy không quản được thì cấm, tôi tin, đây là thời khắc khởi đầu cho những kế hoạch cải cách mang tính xoay chuyển. Công cuộc Đổi mới 40 năm trước của Việt Nam cũng bắt đầu từ quyết định đối diện với sự thật như vậy”, TS. Cung lý giải cho nhận định mà ông thừa nhận “có phần kích động” của mình.
Tìm đọc các văn kiện của Đại hội VI của Đảng, đúng là hiện trạng thể chế của nền kinh tế khi đó được liệt kê thẳng thắn, thừa nhận sự thật là “không tạo được động lực phát triển, kìm hãm sản xuất, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Cùng với đó, nguyên nhân cũng được nêu cụ thể là do “để cơ chế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp tồn tại quá dài; là việc thực hiện các giải pháp nửa vời, để rồi rơi trở lại khuyết điểm cũ...
Trao đổi về thời điểm này, nhiều chuyên gia kinh tế cũng nói, khi đó, hiểu biết về kinh tế thị trường của những người trong hệ thống bộ máy nhà nước, cũng như xã hội gần như là số “0”. Ngay trong văn kiện Đại hội VI, việc chọn con đường nào để đi tiếp cũng chưa rõ, chỉ ghi là “xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế”…
“Nhưng điểm rõ và chắc chắn là kiên quyết đổi mới tư duy, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nghĩa là không chấp nhận cách làm cũ”, ông Cung kể lại.
Bước ngoặt từ cách làm khác
Các nước không đợi chúng ta. Nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình lúc nào cũng rình rập, nếu chúng ta không tìm được con đường mới, bước đi mới.
- Tổng Bí thư Tô Lâm
Cho đến giờ, tốc độ tăng trưởng GDP 9,54% của năm 1995 cũng như tốc độ tăng trưởng trung bình 8,2% của giai đoạn 1991-1995 vẫn là kỷ lục đầy thách thức của kinh tế Việt Nam. Đây cũng là con số không tưởng khi năm 1986, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,79%, lạm phát 774%...
“Năm 1989, theo Quyết định 176-HĐBT, hàng triệu lao động trong các xí nghiệp quốc doanh ‘về một cục’, khi khu vực này bộc lộ rõ điểm yếu không thể sửa chữa, chỉ có cách cắt bỏ. Trong 5 năm, doanh nghiệp nhà nước giảm một nửa, từ 12.000 xuống còn 6.000”, ông Cung phân tích các điểm mấu chốt trong hành động mà ông gọi là “cách làm khác”.
Tất nhiên, giai đoạn trăn trở, tìm cách thoát khỏi tình thế khó khăn, bức bách của nền kinh tế trì trệ, lạm phát phi mã, người dân thiếu ăn, thiếu mặc... đã có từ trước đó, khoảng những năm 1981-1983, với quyết định “bù giá vào lương” ở Vĩnh Long; âm thầm khoán hộ ở Vĩnh Phúc, sau đó lan sang Hải Phòng, hay thí điểm kế hoạch 3 phần của xí nghiệp quốc doanh... Nhưng TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh cũng đồng tình, nếu không “thoát cũ, xây mới”, thì sẽ không có Đổi mới năm 1986, không có Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, không có Việt Nam trong ASEAN, Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1995...
“Bản chất công cuộc Đổi mới của Việt Nam là mở rộng cơ hội lựa chọn, mở quyền kinh doanh cho người dân và mở cửa hội nhập với thế giới. Mở cửa là sẽ có rủi ro, thách thức, thậm chí là đối mặt với những điều ngoài tầm với, sẽ có va vấp. Nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam đã chọn cách dám làm, sẵn sàng học hỏi và rồi dám chơi”, TS. Thành phân tích các bài học kinh nghiệm. Và rồi, nền kinh tế đã đạt được những thành tựu rất đáng kể khi kiên định con đường cải cách thị trường.
10 năm trở lại đây, giới chuyên gia kinh tế cũng như các nhà quản lý đã nhắn đến những đòi hỏi mang tính bước ngoặt của kinh tế Việt Nam.
Một mặt, Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện nền tảng của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập. Mặt khác, phải nghĩ nhiều hơn đến mô hình tăng trưởng, cách thức tăng trưởng dựa vào năng suất, đổi mới, sáng tạo và công nghệ.
Hơn thế, xu hướng mới, gồm chuyển đối số, xanh, dịch chuyển của chuỗi cung ứng gắn với đầu tư, thương mại của “những người chơi lớn” , cùng với giai đoạn tái cấu trúc của kinh tế thế giới đang được cho là áp lực - cũng là cơ hội - để kinh tế Việt Nam nhìn rõ hơn thời điểm bước ngoặt. Đặc biệt, khác với những bước ngoặt trước, Việt Nam đang có cơ hội đi cùng, có thể vượt lên ở một số khía cạnh, chứ không chỉ là đuổi theo, thu hẹp khoảng cách.
Nhưng thách thức đang rất lớn ở cách làm. “Tôi đã thấy tư duy ủng hộ sáng kiến của thị trường, của doanh nghiệp, nhưng hành động chậm quá. Sandbox, fintech hay các tiêu chí xanh, tài chính xanh… vẫn chưa có” , ông Thành thẳng thắn nêu ví dụ.
Vấn đề là, cho dù vậy, người dân, doanh nghiệp vẫn đầu tư, vẫn chuyển đổi và đạt được đáng kể thành tựu. Ông Thành gọi đó là “những sandbox tự thân”, thể hiện đòi hỏi của thực tế, khát vọng được làm của doanh nghiệp.
Khoán 10 trong nông nghiệp, cải cách trong doanh nghiệp nhà nước 40 năm trước cũng bắt đầu từ những đòi hỏi tự thân tương tự.
Lúc này, nền kinh tế đang cần những cơ sở, nền tảng thể chế để đáp ứng yêu cầu mới của xu thế, để có thể vươn lên.
Một Việt Nam hoàn toàn khác
“Chúng ta đã nói rất nhiều về việc chuẩn bị ‘tổ’ cho ‘đại bàng’. Điều này rất đúng, rất nên làm. Nhưng tại sao chúng ta ít đề cập tới kế hoạch chuẩn bị những ‘cánh rừng’, những ‘cánh đồng cho các ‘đàn ong’ lấy hoa làm mật”.
TS. Cung nhắc lại từng chữ trong phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2024, triển khai nhiệm vụ năm 2025 của Chính phủ và chính quyền địa phương. “Tôi tin sẽ có một không gian phát triển mới mẻ dành cho mọi người dân, doanh nghiệp”, ông Cung kỳ vọng.
Đây là điều 25 năm trước, Luật Doanh nghiệp 1999 đã làm, khi lấy kim chỉ nam là tư duy “chọn bỏ”, thay vì “chọn cho”, nghĩa là doanh nghiệp được làm những gì pháp luật không cấm, thay cho chỉ làm theo luật quy định. Thành quả là cộng đồng doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hình thành. Trong số này, nhiều doanh nhân từng có tên trong danh sách giảm biến chế theo “cơ chế 176”...
Hiện tại, TS. Cung nói, Việt Nam đang hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi hơn để vượt lên, tạo nên những thành quả thực sự khác biệt.
Thứ nhất, Việt Nam đang có lực lượng doanh nghiệp khá lớn, đã có giai đoạn tích lũy đáng kể; có đội ngũ trí thức kết nối với thế giới, có khả năng tiếp cận công nghệ nhanh; có thể huy động cả vốn và nhân lực từ thị trường toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp, trí thức Việt đã vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ, cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.
Thứ hai, điều kiện để có cách làm khác hiện hữu, khi cuộc cách mạng tinh giản bộ máy đang được thực hiện rất quyết liệt, theo hướng thiết kế lại, chứ không chỉ là sắp xếp.
Ông Cung phân tích, thực chất, đây là việc xác định lại vai trò, chức năng của các bộ, của Chính phủ, hay rộng hơn là vai trò của Nhà nước đặt trong thị trường, từ đó thiết kế tổ chức bộ máy, công cụ thực hiện.
Như vậy, phần việc rất lớn tới đây sẽ là tinh giảm hệ thống pháp luật, thiết kế hệ thống văn bản pháp luật mới, theo cách làm mà Tổng Bí thư đã chỉ đạo, đó là bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, đề cao phương pháp “quản lý theo kết quả”, đổi mới phân bổ ngân sách theo kết quả đầu ra và chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”. Khi đó, không gian mới mẻ sẽ mở rộng cho các sáng kiến, ý tưởng, cách làm mới của đội ngũ công chức trong hệ thống nhà nước để thu hút đầu tư, tìm kiếm nguồn lực, tạo động lực phát triển...
Trong môi trường đó, bài toán tăng trưởng cao, ở mức 2 con số, kéo dài trong khoảng 10, thậm chí là 20 năm mà Đảng, Chính phủ đang đặt ra sẽ được người Việt, doanh nghiệp Việt, ở trong nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới, cùng tìm lời giải.
Trong kỷ nguyên mới, Việt Nam sẽ là tổ cho cả đại bàng và là cánh đồng rực rỡ cho những đàn ong mật.