Cụ thể, Kiểm toán Nhà nước cho biết, năm 2021, cơ quan này đã kiểm toán báo cáo tài chính, các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước năm 2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 9 tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Kết quả kiểm toán cho thấy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, góp phần kiểm soát lạm phát ở mức 3,23%, nhiều lần điều chỉnh giảm lãi suất.
Các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm được kiểm toán đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động, kinh doanh có lãi, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 2%. Riêng PGBank có tỷ lệ nợ xấu là 2,49%.
Tuy nhiên, theo Kiểm toán Nhà nước, mức giảm lãi suất cho vay bình quân chậm hơn mức giảm lãi suất tiền gửi bình quân, chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi duy trì ở mức cao. Đáng chú ý, Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PVcomBank) còn tăng trưởng tín dụng vượt mức tối đa cho phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 3.318 tỷ đồng.
Báo cáo Kiểm toán Nhà nước gửi Quốc hội cũng nêu rõ thực trạng một số đơn vị đầu tư tài chính không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp. Cụ thể như VietinBank chi nhánh tại Đức lỗ lũy kế 16,2 triệu euro (462 tỷ đồng). Ngân hàng Hợp tác xã chưa thu được khoản đầu tư tiền gửi 330 tỷ đồng/580 tỷ đồng tại Công ty cổ phần Tài chính Handico từ năm 2011.
Một số ngân hàng chưa được xử lý dứt điểm một số khoản công nợ như VietinBank có khoản phải trả 907.461 euro không có hồ sơ chi tiết; PVI: Công ty mẹ còn khoản phải thu 4,73 tỷ đồng của Công ty TNHH MTV Khách sạn Green Plaza Đà Nẵng phát sinh trong giai đoạn năm 2010- 2018; Tổng Công ty Bảo hiểm PVI chưa làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm liên quan đến một số khoản công nợ phải thu, tạm ứng lâu ngày không có khả năng thu hồi 8,51 tỷ đồng.
Cũng theo Kiểm toán Nhà nước, một số đơn vị chưa nộp ngân sách Nhà nước khoản thu hồi được từ nợ ngoại bảng đã được loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa như VietinBank 76 tỷ đồng, BIDV 34 tỷ đồng, Vietcombank 1,16 tỷ đồng.
Việc quản lý, sử dụng đất vẫn còn một số hạn chế, cụ thể như Ngân hàng Hợp tác xã còn 3 thửa đất (diện tích 1.698,3m2) đang để trống chưa sử dụng; VietinBank chưa hoàn thành việc lập báo cáo kê khai đối với tất cả các cơ sở nhà, đất đang quản lý, sử dụng thuộc phạm vi phải sắp xếp lại, xử lý theo quy định.
Kiểm toán Nhà nước cũng chỉ ra tình trạng một số ngân hàng phân loại nợ chưa phù hợp. Ngoại trừ các trường hợp năm 2021 các ngân hàng đã phân loại vào nhóm nợ cao hơn hoặc đã tất toán nợ vay nên Kiểm toán Nhà nước không điều chỉnh nhóm nợ.
Cụ thể, PGBank không điều chỉnh giảm dư nợ nhóm 1 là 622,46 tỷ đồng; tăng dư nợ nhóm 2 là 132,43 tỷ đồng, nhóm 3 là 275,02 tỷ đồng, nhóm 4 là 13,18 tỷ đồng, nhóm 5 là 201,83 tỷ đồng.
VietinBank không điều chỉnh giảm dư nợ nhóm 1 là 7.197,01 tỷ đồng; tăng dư nợ nhóm 2 là 2.735,56 tỷ đồng, nhóm 3 là 3.677,05 tỷ đồng, nhóm 4 là 384,51 tỷ đồng, nhóm 5 là 399,89 tỷ đồng.
Ngân hàng Hợp tác xã không điều chỉnh giảm dư nợ nhóm 1 là 245,8 tỷ đồng; tăng dư nợ nhóm 2 là 0,46 tỷ đồng, nhóm 3 là 16,02 tỷ đồng, nhóm 4 là 26,96 tỷ đồng, nhóm 5 là 202,36 tỷ đồng).
Kết quả kiểm toán còn điều chỉnh nhóm nợ tại PGBank là giảm dư nợ nhóm 1 là 45,49 tỷ đồng; tăng dư nợ nhóm 2 là 34,07 tỷ đồng, nhóm 3 là 9,62 tỷ đồng, nhóm 4 là 0,35 tỷ đồng, nhóm 5 là 1,45 tỷ đồng…
Việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng một số tổ chức còn chưa chính xác, còn sai sót về trình tự, thủ tục cho vay; thẩm định sơ sài; định kỳ chưa đánh giá lại tài sản bảo đảm; thiếu chứng từ giải ngân/tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn; kiểm tra, giám sát sau cho vay còn sơ sài; gia hạn nợ vượt quá thời gian..., báo cáo Kiểm toán Nhà nước nêu rõ.
Cũng theo đơn vị kiểm toán, Ngân hàng Chính sách Xã hội còn nhiều trường hợp cho vay vượt hạn mức (cho vay đối với 2 người có cùng một hộ khẩu) và cho vay đối tượng không phù hợp với mục tiêu của chương trình, dẫn đến xác định số tiền cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ ngân sách nhà nước tăng thêm 0,58 tỷ đồng.
Tại Ngân hàng Hợp tác xã, hệ thống công nghệ thông tin (phân hệ tín dụng) chưa tự động chuyển nợ quá hạn đối với việc phân loại nợ theo định lượng, chưa có chốt tự động kiểm soát chặt chẽ đối với số liệu dự phòng rủi ro tín dụng.