
IMF nhận định, kinh tế Việt Nam đã bật trở lại mạnh mẽ trong năm 2024, đạt mức tăng trưởng 7,1% nhờ xuất khẩu mạnh, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có sức chống chịu cao và các chính sách mang tính hỗ trợ. Đà tăng trưởng này tiếp tục trong nửa đầu năm 2025, với hoạt động kinh tế tăng 7,5% (so cùng kỳ năm trước) nhờ vào việc đẩy mạnh xuất khẩu sớm, tăng trưởng tín dụng nhanh hơn và khoản chi tiêu lớn phát sinh một lần của chính phủ. Lạm phát có tăng nhanh hơn một chút trong những tháng gần đây, tại thời điểm tháng 6/2025 đạt 3,6% so cùng kỳ năm trước, song vẫn ở dưới mức mục tiêu. Cán cân vãng lai thặng dư ở mức kỷ lục 6,6% GDP trong năm 2024.
Triển vọng của nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào kết quả đàm phán thương mại và bị hạn chế bởi sự bất định tăng cao trên toàn cầu về chính sách thương mại và môi trường kinh tế. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự báo sẽ chậm lại, chỉ đạt 6,5% trong năm 2025 và tiếp tục giảm tốc vào năm 2026 do tác động của các mức thuế quan mới của Mỹ (công bố vào tháng 7/2025), và việc chấm dứt phần lớn các biện pháp kích thích tài khoá mang tính một lần của chính phủ trong năm 2025.
Các rủi ro tiêu cực đang ở mức cao. Trong trường hợp căng thẳng thương mại toàn cầu tiếp tục leo thang hoặc điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt thì xuất khẩu và đầu tư có thể bị suy yếu hơn nữa. Ở trong nước, tình trạng căng thẳng tài chính có thể tái diễn do điều kiện tài chính thắt chặt và mức độ vay nợ cao của khu vực doanh nghiệp. Ở chiều hướng tích cực, việc triển khai thành công các dự án hạ tầng và cải cách cơ cấu có thể thúc đẩy đáng kể tăng trưởng trong trung hạn. Nếu căng thẳng thương mại toàn cầu hạ nhiệt, triển vọng kinh tế sẽ được cải thiện.
![]() |
Các Ban Giám đốc Điều hành cơ bản nhất trí với nội dung chính trong đánh giá của cán bộ Quỹ. Họ hoan nghênh thực tế là bất chấp những biến động gia tăng cả trong và ngoài nước, tăng trưởng kinh tế vẫn thể hiện sức chống chịu kiên cường, nhờ có các chính sách hỗ trợ.
Tuy nhiên, họ cũng lưu ý rằng mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của nền kinh tế phải đối mặt với những thách thức ngày càng tăng đến từ các chính sách thương mại toàn cầu không chắc chắn và thay đổi nhanh chóng, già hoá dân số, điều kiện tài chính toàn cầu siết chặt và biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, các chính sách cần tập trung duy trì sức chống chịu của nền kinh tế và ổn định tài chính, đồng thời thúc đẩy cải cách để duy trì tăng trưởng mạnh, đa dạng và ổn định trong trung hạn; tiếp tục duy trì sự linh hoạt trong phối hợp điều hành chính sách để ứng phó với môi trường kinh tế không chắc chắn và thay đổi nhanh chóng.
Với dư địa tài khoá hiện có, chính sách tài khoá có thể gánh vác vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ hoạt động kinh tế một cách thận trọng, đặc biệt trong trường hợp cần có biện pháp hỗ trợ tạm thời và có mục tiêu.
Theo các Giám đốc Điều hành, dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ là rất hạn chế, cần theo dõi chặt chẽ các rủi ro tỷ giá và lạm phát trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và tín dụng vẫn ở mức cao. Tỷ giá linh hoạt hơn là yếu tố quan trọng để tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh trước các cú sốc từ bên ngoài, lưu ý đến những lợi ích của việc đẩy nhanh hiện đại hoá khuôn khổ chính sách tiền tệ nhằm quản lý rủi ro hiệu quả hơn.
Các Giám đốc Điều hành nhấn mạnh rằng, củng cố khuôn khổ tài khoá trung hạn có ý nghĩa then chốt để thu hoạch được những lợi ích tăng trưởng từ kế hoạch đầu tư công quy mô lớn, đảm bảo tính bền vững của nợ công; cần thiết phải nâng cấp quản lý đầu tư công, tăng cường huy động thu ngân sách, nâng cao tính minh bạch tài khoá và quản lý rủi ro tốt hơn, bao gồm cả những rủi ro từ các dự án đối tác công - tư; cần thiết phải tăng cường khả năng chống chịu của khu vực tài chính trước các cú sốc. Ưu tiên hàng đầu là củng cố các bộ đệm thanh khoản và vốn, cải thiện bộ công cụ an toàn vĩ mô.
Họ cũng kêu gọi tiếp tục nâng cấp khuôn khổ pháp lý về phá sản, chuẩn bị sẵn sàng đối phó và xử lý khủng hoảng, tăng cường khuôn khổ phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố (AML/CFT), cũng như thúc đẩy hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tài sản mã hoá.
Các Giám đốc Điều hành hoan nghênh chương trình cải cách toàn diện của các cơ quan chức năng, đồng thời nhấn mạnh rằng công tác triển khai sẽ là yếu tố then chốt quyết định thành công. Họ kêu gọi thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao năng suất, bao gồm cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách thị trường vốn và thị trường lao động; khuyến nghị tiếp tục nỗ lực thúc đẩy cầu trong nước và giảm sự mất cân đối đến từ môi trường bên ngoài, bao gồm việc đầu tư nâng cấp hạ tầng trọng yếu và củng cố mạng lưới an sinh xã hội; đồng thời thúc đẩy đa dạng hoá thương mại hơn nữa.
Một số ý kiến cho rằng, cần tập trung nhiều hơn vào việc thảo luận tác động của phối hợp chính sách đến các mất cân đối bên ngoài của Việt Nam và các biện pháp chính sách cần thiết. Các Giám đốc Điều hành hoan nghênh động lực cải cách thể chế lớn nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực của bộ máy chính phủ, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục cải thiện quản trị kinh tế và khắc phục những khoảng trống dữ liệu, bao gồm dữ liệu về khu vực đối ngoại.
Theo dự kiến, đợt Tham vấn Điều IV tiếp theo với Việt Nam sẽ được tiến hành theo chu kỳ chuẩn 12 tháng.
Theo Điều IV Điều lệ của IMF, Quỹ tiến hành các thảo luận song phương với các quốc gia thành viên, thường theo định kỳ hàng năm. Một đoàn cán bộ của Quỹ đến công tác tại quốc gia đó, thu thập thông tin kinh tế và tài chính, thảo luận với các cơ quan chức năng về tình hình kinh tế và các chính sách kinh tế của quốc gia. Khi trở về hội sở chính, các cán bộ Quỹ sẽ soạn thảo một báo cáo là cơ sở để Ban Giám đốc Điều hành thảo luận.
Theo Điều lệ của IMF, việc công bố các tài liệu về các quốc gia thành viên mang tính tự nguyện, và phải có sự đồng ý của quốc gia thành viên. Các cơ quan chức năng đã yêu cầu có thêm thời gian để quyết định việc công bố báo cáo của cán bộ Quỹ. Thời hạn để cơ quan chức năng ra quyết định là 28 ngày kể từ ngày Ban Giám đốc Điều hành xem xét báo cáo.