Thoạt đầu, do "margin" chỉ đơn thuần là cách vay tiền để mua chứng khoán, người ta đã gọi hoạt động này là vay mua. Nhưng về sau, khi bối cảnh margin ngày càng hoàn thiện, với các nghiệp vụ phức tạp và không chỉ liên quan tới tiền, thì cách hiểu và gọi đơn giản quá đã tỏ ta không còn phù hợp. Đặc biệt là trong "short sale" (bán trước), một nhánh quan trọng của nghiệp vụ margin, lại có giao dịch cần được hiểu là vay bán. Do vậy, gọi là giao dịch bảo chứng sẽ cho cách hiểu khái quát hơn.
Do quy mô về số lượng và giá trị giao dịch trên thị trường sẽ tăng mạnh thông qua tài khoản bảo chứng, người ta ví von hoạt động đầu tư được hỗ trợ bằng phương tiện tiến công này là "một nửa sôi động" của TTCK. Tại các thị trường phát triển, phương thức đầu tư bảo chứng không chỉ có bảo chứng để mua (vay để mua), mà gồm cả bảo chứng để bán (vay để bán). Tài sản vay và cho vay cũng không nhất thiết chỉ là tiền, mà còn là chứng khoán. Việc vay và cho vay được chế định và quản lý theo các nghiệp vụ đầu tư tài chính bài bản, vừa chặt chẽ, vừa theo hướng "tạo điều kiện" khá phức tạp, rủi ro được hạn chế đến mức tối đa… Chứ không đơn giản là thủ tục vay nợ thế chấp thông thường giữa chủ nợ và con nợ (như giữa ngân hàng và NĐT theo "Chỉ thị 03" ở ta hồi năm 2007). Tuy vậy, đối với người đầu tư, việc sử dụng tài khoản bảo chứng lại khá đơn giản và tiện lợi.
Các mối quan hệ trong bối cảnh margin được xếp đặt hợp lý và có thể chia thành ba đôi chính: giữa NĐT với CTCK, giữa CTCK với ngân hàng và giữa các CTCK với nhau hoặc với tổ chức tài chính khác (cách vay trực tiếp giữa NĐT với ngân hàng là nghiệp vụ tín dụng thế chấp, chỉ có một đôi). Các đôi quan hệ này gắn kết đối ứng về quyền lợi và nghĩa vụ với nhau theo nguyên tắc phân công chuyên nghiệp. Rủi ro như vậy được chẻ nhỏ, được ngắt ra từng đoạn nhằm hạn chế sự lây lan hay đổ vỡ dây chuyền. Bởi, ngân hàng tuy giỏi kinh doanh tiền, nhưng không thể sâu hơn CTCK về mặt chứng khoán và ngược lại… Hành lang luật lệ, các quy chuẩn chuyên ngành, phương pháp tính toán, yêu cầu tác nghiệp đồng bộ trong hệ thống… là các yếu tố hạ tầng khác không kém phần quyết định, giúp cho lĩnh vực hoạt động khá chuyên sâu này được vận hành một cách trơn tru và hiệu quả. Hình thức bảo chứng sở dĩ thuyết phục và hấp dẫn là do nó có cái móng được kết cấu chặt (theo cách vừa nói) trên cái nền biến động - hay sinh động - của hoạt động đầu tư tài chính.
Hoạt động đầu tư tài chính nói chung là biến động hay rất biến động. Trường hợp được hỗ trợ bằng nợ vay để gia tăng thương vụ (leverage) thì tình trạng còn phức tạp và nhạy cảm hơn nhiều. Đầu tư bằng đòn cân nợ có đặc điểm tiến công nhưng mạo hiểm, mà nếu thiếu công cụ kiểm soát và kiềm chế thì rất dễ dẫn đến các thái cực xấu. Riêng việc cho vay thế chấp trong lĩnh vực chứng khoán thì do yêu cầu an toàn, ngân hàng khó có thể "làm ăn" một mình được. Cách vay và cho vay "tươi" giữa NĐT với ngân hàng chỉ là cách tạm thời để "giải quyết nóng" một nhu cầu vốn chính đáng, chứ thật ra yêu cầu phát triển bền vững cho TTCK cần có cơ chế và công cụ thay thế chuyên nghiệp hơn. Sự nhập cuộc và kết hợp đồng bộ giữa các thành tố trong thị trường, đặc biệt là các CTCK, giữa họ với nhau và với ngân hàng, sẽ trở nên cần thiết. Mặt khác, khuôn khổ pháp lý và sự giám quản vĩ mô sẽ là chỗ dựa cho trật tự thị trường, hạn chế đến mức thấp nhất các biến động bất ý. Kinh nghiệm thế giới đã nói lên điều đó.
Vào những năm đầu 1930, thị trường Mỹ đã nhận ra vấn đề vay mượn thái quá để đầu tư chứng khoán (quan hệ trực tiếp giữa NĐT với ngân hàng) là một trong những nguyên nhân gây ra biến cố đổ vỡ thị trường năm 1929, kéo theo cuộc đại khủng hoảng kinh tế sau đó. Chính vì vậy, Quốc hội nước này đã xây dựng và thông qua Luật Giao dịch chứng khoán 1934 (Securities Exchange Act of 1934) và giao cho Ngân hàng Dự trữ Liên bang (FRB - Federal Reserve Board) thẩm quyền điều chỉnh việc đầu tư theo hình thức bảo chứng. Từ đó đến nay, hoạt động đầu tư theo hình thức bảo chứng tại Mỹ nói riêng và thế giới nói chung đã diễn ra một cách có trật tự hơn, nương theo các nề nếp có thể kiểm soát được.
Tại Việt Nam, vào những giai đoạn thị trường bật lên sôi động, ví dụ năm 2006 và 2007, hoạt động vay mua chứng khoán tăng mạnh, nhưng chủ yếu là cầm cố chứng khoán để vay tiền, là quan hệ tín dụng thế chấp trực tiếp giữa ngân hàng và NĐT, đây không phải hoạt động đầu tư qua tài khoản bảo chứng. Dù hoạt động vay nợ để đầu tư được xem là nhu cầu bình thường và quan hệ tín dụng thế chấp chứng khoán (giấy tờ có giá) là hợp lệ, nhưng đó là xét trên từng quan hệ riêng lẻ. Xét theo yêu cầu chuyên ngành và trong bối cảnh liên lập, thì cách cầm cố chứng khoán đơn giản để vay tiền đầu tư nếu diễn ra tập trung và tự phát là không thuyết phục, có thể đưa đến những tình tiết xấu do sự biến động thất thường của giá cổ phiếu. Hơn nữa, nếu hoạt động này cứ tách biệt và diễn ra độc lập với thị trường giao dịch chứng khoán thì xét về cách làm là chưa chuyên nghiệp.
Nghiên cứu xây dựng và áp dụng nghiệp vụ bảo chứng, với các phương thức, kỹ thuật và quy chuẩn đồng bộ, do vậy là việc cần làm, vì điều này sẽ giúp cho thị trường hoạt động đa dạng và ổn định hơn. Tài khoản bảo chứng còn là loại tài khoản "chuyên dùng", là phương tiện không thể thiếu trong hoạt động bán trước. Bán trước hay bán trước mua sau (short selling - ta quen gọi chưa chính xác là "bán khống") là hoạt động đầu tư sử dụng cổ phiếu vay mượn mà thị trường Việt Nam cũng đã đề cập trong Luật Chứng khoán và đang được chờ đợi…