Tạo áp lực lên thanh khoản, lãi suất
Chị Thu Lan, ở Yên Hoà, Hà Nội kể, đầu tháng 9/2025, gia đình chị có một khoản tiền tiết kiệm đáo hạn, nhân viên Ngân hàng T đã thuyết phục chị gửi tiết kiệm 6 tháng với lãi suất 5,9%/năm và hứa hẹn: “Nếu chị cần tiền sẽ hỗ trợ vay lại từ sổ tiết kiệm, với lãi suất vay dự tính là 7%/năm”. Theo nhân viên ngân hàng này, với mức lãi vay 7%/năm, chị vẫn thu được một khoản tiền về, thay vì gửi tiết kiệm 3 tháng sau đó rút ra trả nợ.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, khi chị Lan đặt vấn đề vay cầm cố sổ tiết kiệm thì chị nhận được câu trả lời từ nhân viên ngân hàng trên: “Hiện bên em đang tạm dừng cho vay cầm cố sổ tiết kiệm vì hội sở đang kiểm soát giải ngân cuối năm để cân đối room. Nếu chị thật sự cần vốn, em sẽ giới thiệu chị qua Ngân hàng P. vay. Ngân hàng em liên kết với Ngân hàng P. hỗ trợ món vay cầm cố sổ tiết kiệm cho khách hàng. Lãi suất vay là 7,5%/năm”.
Chị Lan là một trong rất nhiều trường hợp khách hàng của ngân hàng phản ánh việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng khó khăn hơn cũng như lãi vay đang nhích lên trong tháng cuối năm. Thực tế, đây là câu chuyện không mới trong ngành ngân hàng, khi cầu vốn thường tăng mạnh trong mùa cao điểm kinh doanh và thanh toán cuối năm. Bên cạnh đó còn xuất phát từ yếu tố kỹ thuật, các ngân hàng phải đảm bảo hạn mức cho vay ra (room tín dụng) và cơ cấu tín dụng theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Cho vay cầm cố sổ tiết kiệm vốn được xem là khoản vay rất ít rủi ro vì có tài sản bảo đảm, tuy nhiên, năm nay, việc tăng trưởng huy động vốn chậm hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng (theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính tới ngày 27/11/2025, tăng trưởng tín dụng đạt 16,56% so với cuối năm 2024, trong khi huy động vốn chỉ tăng trưởng khoảng 9,6 - 10,2%) đang đẩy hệ thống ngân hàng vào trạng thái phòng thủ nhiều hơn là mở rộng tín dụng. Việc các nhà băng nâng lãi suất huy động lên cao trong thời gian qua cũng nhằm giữ chân dòng tiền của người dân và doanh nghiệp ở lại kênh tiết kiệm, gia cố thanh khoản cho ngân hàng.
Từ phía bảng cân đối, các ngân hàng phải đảm bảo hệ số an toàn vốn, giới hạn sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, áp lực đáo hạn trái phiếu và nhu cầu dự phòng rủi ro ngày một lớn hơn. Khi chi phí vốn tăng lên, biên lãi vay bị thu hẹp, ưu tiên của các nhà băng không còn là “đẩy tiền ra”, mà là neo dòng tiền vào hệ thống, hạn chế mọi kênh làm biến dạng dòng vốn.
“Việc đẩy lãi suất huy động lên mặt bằng cao hơn vào thời điểm này không thể nhìn nhận đơn thuần là tín hiệu tích lũy vốn để mở rộng tín dụng, càng không cho thấy các ngân hàng đang sẵn sàng bơm vốn rẻ ra nền kinh tế. Ngược lại, đây là dấu hiệu điển hình của một trạng thái phòng thủ, trong đó thanh khoản trở thành “ô-xy” - tài nguyên quan trọng để đảm bảo an toàn hệ thống, duy trì niềm tin người gửi tiền và đáp ứng các chuẩn mực an toàn vốn ngày một nghiêm ngặt hơn”, lãnh đạo cao cấp một ngân hàng thương mại cổ phần nhận định.
Cần sự kết nối, bổ trợ của các nguồn vốn khác
Từ góc nhìn của TS. Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, thời gian qua, hệ thống các tổ chức tín dụng đã nỗ lực cung ứng vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế tiếp tục phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn tín dụng, rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng sẽ gia tăng, đặc biệt trong các giai đoạn cao điểm như cuối năm.
Cũng theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, mặt bằng lãi suất trong thời gian tới nhiều khả năng sẽ có điều chỉnh, qua đó, tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất - kinh doanh và chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Trong bối cảnh các ngân hàng hướng tới tuân thủ các chuẩn mực an toàn vốn cao hơn như Basel III, bài toán cân đối nguồn lực để vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế vừa đáp ứng yêu cầu an toàn theo thông lệ quốc tế trở nên ngày càng thách thức.
“Đây là vấn đề cần được đặt ra trong hoạch định chính sách huy động và phân bổ nguồn lực, nhất là khi khu vực ngân hàng là kênh dẫn vốn chủ yếu của nền kinh tế đang phải điều chỉnh mạnh mẽ để tiệm cận các chuẩn mực quốc tế”, ông Hùng nói.
Bên cạnh đó, TS. Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, cơ cấu đầu tư hiện nay cũng đặt ra nhiều vấn đề. Vốn đầu tư vào lĩnh vực nông - lâm - thủy - hải sản chiếm khoảng trên 20%, vốn vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng cũng ở mức trên 20%, cho thấy yêu cầu chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung nhiều hơn vào sản xuất - kinh doanh. Việc ưu tiên các công cụ chính sách tài khóa và dòng vốn phục vụ sản xuất, thay vì dồn vào các lĩnh vực mang tính đầu cơ là đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Ông Hùng nhấn mạnh một vấn đề quan trọng khác, là sự kết nối và bổ trợ giữa vốn ngân sách nhà nước thông qua đầu tư công với vốn tín dụng ngân hàng. Vốn ngân sách cần đóng vai trò “vốn mồi”, đồng hành cùng tín dụng ngân hàng để tạo lực đỡ cho doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh, qua đó, góp phần hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững, đồng thời hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô. Việc phối hợp hiệu quả hai nguồn vốn này sẽ giúp phát huy giá trị của cả vốn ngân sách lẫn vốn tín dụng.
“Ngược lại, nếu dòng vốn tín dụng tiếp tục dồn quá nhiều vào các lĩnh vực như bất động sản, dịch vụ du lịch hay môi giới, đặc biệt là bất động sản, hệ quả có thể rất nghiêm trọng. Nền kinh tế có thể đạt tăng trưởng trong ngắn hạn, nhưng thiếu bền vững và tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống tài chính”, TS. Hùng nói.
Ở tầm vĩ mô, TS. Phạm Xuân Hoè, Tổng thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam (VLFA) nhận định, nếu nền kinh tế tiếp tục dựa chủ yếu vào hệ thống ngân hàng như hiện nay - khi hệ thống ngân hàng đang phải cung ứng hơn 60% vốn cho nền kinh tế - rủi ro là không nhỏ. Tỷ lệ tín dụng trên GDP hiện đã ở mức khoảng 137% và có thể lên tới 180% vào năm 2030 nếu chúng ta không phát triển các kênh dẫn vốn khác mà vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng như hiện nay.
Rủi ro cụ thể được ông Hoè đề cập, đầu tiên, đó là rủi ro nợ xấu. Giai đoạn từ năm 2008 - 2011, hệ thống ngân hàng tăng trưởng tín dụng quá nóng và phải trả giá rất lâu cho việc xử lý nợ xấu. Đến nay, VAMC vẫn đang phải gánh một khối lượng lớn nợ xấu tồn đọng từ giai đoạn đó.
Tiếp theo là rủi ro bong bóng tài sản, đặc biệt là bong bóng bất động sản. Theo ông Phạm Xuân Hòe, có một thực tế rất đáng lo ngại khi trên các phương tiện truyền thông đại chúng chủ yếu nhắc tới các dự án bất động sản trị giá hàng tỷ USD, trong khi các dự án lớn của những ngành kinh tế khác gần như không thấy. Ngoài ra, còn có nguy cơ bong bóng chứng khoán, nhất là khi cho vay margin tại các công ty chứng khoán ngày càng gia tăng.
Đáng chú ý là rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng và rủi ro hệ thống. Do đặc thù thanh khoản, áp lực cung ứng vốn của hệ thống ngân hàng là rất rõ, đặc biệt là tỷ lệ cho vay trung và dài hạn hiện vào khoảng 45 - 47%, trong khi khoảng 80% nguồn vốn huy động là ngắn hạn. Chỉ cần lãi suất biến động là niềm tin vào hệ thống ngân hàng có thể suy giảm ngay.
Vấn đề bao trùm đó là rủi ro vĩ mô, đặc biệt là rủi ro chu kỳ của nền kinh tế. Nếu chúng ta cứ lặp đi lặp lại những khó khăn mang tính chu kỳ như hiện nay, mục tiêu phát triển bền vững sẽ rất khó đạt được.
“Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, chúng ta nói rất nhiều về phát triển bền vững và ESG, nhưng các chính sách đi kèm để doanh nghiệp có thể thực hiện thực chất vẫn còn thiếu và yếu. Tôi kiến nghị ba điểm: Thứ nhất, đối với các sản phẩm xanh, thuế VAT cần được giảm, ít nhất là thấp hơn so với các mặt hàng thông thường. Thứ hai, các chi phí logistics, vận chuyển cần được ưu tiên, trong đó có việc miễn hoặc giảm phí cầu, phà trên các tuyến đường do Nhà nước quản lý. Thứ ba, các chi phí tư vấn và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi sang ESG cần được Nhà nước hỗ trợ”, TS. Phạm Xuân Hoè khuyến nghị.