Nên "thả rông" vàng trang sức, chỉ cần quản vàng miếng, vàng thỏi
Theo TS. Cấn Văn Lực - chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, một trong những vấn đề quan trọng nhất hiện nay với quản lý thị trường vàng là cần xác định rõ phạm vi vàng cần quản lý.
Theo chuyên gia, cần phải tiếp tục quản lý chặt vàng miếng, vàng thỏi - vốn mang tính đầu tư, dự trữ và liên quan trực tiếp đến ổn định tài chính. Tuy nhiên, với vàng trang sức, vàng thủ công mỹ nghệ mang tính tiêu dùng và hàm lượng giá trị gia công cao, cần cân nhắc mức độ quản lý phù hợp, tránh áp đặt cơ chế như đối với vàng miếng, gây tốn kém và không cần thiết.
Ngoài ra, cũng theo TS. Lực, Việt Nam nên nhìn nhận lại mức độ “vàng hoá” của nền kinh tế, xác định mức độ tích trữ vàng trong dân, công khai, minh bạch dữ liệu và kiên định chấm dứt hoàn toàn quan hệ vay - mượn bằng vàng để giảm rủi ro hệ thống.
Về vấn đề nan giải nhất hiện nay là kéo giảm chênh lệch giá vàng trong nước - quốc tế, các chuyên gia cho rằng, giải pháp cấp bách nhất là tăng nguồn cung hợp pháp. Trên thực tế, tình trạng bất ổn của vàng thời gian qua một phần là do nguồn cung khan hiếm.
"Khi việc tiếp cận vàng trở nên quá khó, tâm lý tò mò và đổ xô mua càng tăng, đẩy thị trường vào bất ổn. Do đó, cần minh bạch hóa thị trường và song song tạo ra các kênh đầu tư hấp dẫn khác để người dân chuyển hướng dòng tiền sang sản xuất - kinh doanh thay vì đầu cơ vàng. Bên cạnh đó, công tác chống buôn lậu vàng phải được đẩy mạnh, đồng thời triển khai đầy đủ Nghị định 232 để tăng cung vàng miếng một cách hợp pháp và minh bạch", TS. Lực nhận định.
Có sản phẩm đầu tư vàng an toàn, nguồn vàng trong dân sẽ chảy tự nhiên vào nền kinh tế
Đến nay vẫn chưa có con số thống kê chính xác lượng vàng trong dân, chỉ biết rằng "kho vàng" này không hề nhỏ. Câu chuyện làm sao để số lượng "vàng chết" này đi vào nền kinh tế được nhiều chuyên gia đặt ra.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cho rằng, lượng vàng trong dân ước lên đến hàng trăm tấn nhưng việc huy động lượng vàng này vào nền kinh tế không thể thực hiện trong ngắn hạn mà cần một quá trình dài hơi, thận trọng và có niềm tin thị trường.
Theo chuyên gia, vàng tại Việt Nam không chỉ là tài sản đầu cơ mà còn đóng vai trò tích lũy, bảo hiểm tài chính. Nhiều gia đình không có bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm y tế, nên vàng trở thành “của để dành”, được sử dụng khi gặp biến cố. Tính thanh khoản cao, dễ mua bán, chia nhỏ, giữ kín khiến vàng trở thành lựa chọn quen thuộc và sâu gắn với tập tính tài chính của người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, việc trữ vàng vật chất tại nhà là một sự lãng phí lớn đối với nền kinh tế. Ước tính lượng vàng cất giữ trong dân tương đương 8% GDP, nhưng không được đưa vào sản xuất - kinh doanh.
"Về lâu dài, chúng ta phải hướng tới mô hình chứng khoán hóa vàng, người dân nắm giữ tài sản vàng dưới dạng chứng chỉ có giá trị tương đương vàng vật chất. Nhưng để điều đó xảy ra, điều quan trọng nhất là niềm tin. Người dân phải tin rằng chứng chỉ đó an toàn tuyệt đối và có giá trị thực. Nếu chúng ta xây dựng được niềm tin thị trường, giảm độc quyền, mở rộng quyền tham gia của doanh nghiệp và ngân hàng, bảo đảm lưu thông vàng minh bạch, cung cấp các sản phẩm đầu tư vàng an toàn thì dòng vàng trong dân sẽ dần đi vào hệ thống một cách tự nhiên và tự nguyện", TS. Nguyễn Trí Hiếu kiến nghị.