Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch Điện VIII: Đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 74 - 75%

(ĐTCK) Quy hoạch này được điều chỉnh nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 trên 8% và phấn đấu đạt mức hai con số vào giai đoạn 2026 – 2030.
Dự án điện gió ở huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị (Ảnh: M.Minh)

Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn vừa ký Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt là Quy hoạch điện VIII điều chỉnh).

Theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, về chuyển đổi năng lượng công bằng, sẽ phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo (không bao gồm thuỷ điện) phục vụ sản xuất điện, đạt tỷ lệ khoảng 28 - 36% vào năm 2030.

Định hướng đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 74 - 75%. Xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, đủ khả năng tích hợp, vận hành an toàn hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn.

Về cơ cấu nguồn điện, đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước (không bao gồm xuất khẩu) là 183.291 - 236.363 MW.

Trong đó, điện gió trên bờ và gần bờ đạt 20.066 - 38.029 MW, chiếm tỷ lệ 14,2 -16,1%; điện gió ngoài khơi 6.000 – 17.032 MW đưa vào vận hành giai đoạn 2030 - 2035, có thể đẩy sớm tiến độ nếu điều kiện thuận lợi và giá thành phù hợp.

Điện mặt trời đạt ngưỡng 46.459 - 73.416 MW (chiếm tỷ lệ 25,3 - 31,1%), bao gồm điện mặt trời tập trung và điện mặt trời mái nhà (không bao gồm các nguồn điện mặt trời theo khoản 5 Điều 10 Luật Điện lực 61 năm 2024).

Điện sinh khối 1.523 - 2.699 MW, điện sản xuất từ rác 1.441 - 2.137 MW, điện địa nhiệt và năng lượng mới khác khoảng 45 MW.

Thủy điện 33.294 - 34.667 MW (chiếm tỷ lệ 14,7 - 18,2%) có thể phát triển cao hơn nếu bảo đảm môi trường, bảo vệ rừng, bảo vệ an ninh nguồn nước.

Nguồn lưu trữ là 10.000 - 16.300 MW, chiếm tỷ lệ 5,5 - 6,9%; nhiệt điện than 31.055 MW, chiếm tỷ lệ 13,1 - 16,9%; nhiệt điện khí trong nước 10.861 - 14.930 MW, chiếm tỷ lệ 5,9 - 6,3%; Nhiệt điện LNG đạt 22.524 MW chiếm tỷ lệ 9,5 - 12,3%.

Nguồn điện linh hoạt (nhiệt điện sử dụng nhiên liệu LNG, dầu, hydrogen… có độ linh hoạt vận hành cao) 2.000 - 3.000 MW (chiếm tỷ lệ 1,1 - 1,3%); thủy điện tích năng 2.400 - 6.000 MW.

Nhập khẩu khoảng 9.360 - 12.100 MW điện từ Lào, Trung Quốc (chiếm tỷ lệ 4,0-5,1%), tăng tối đa quy mô nhập khẩu điện từ Lào theo Hiệp định giữa hai Chính phủ hoặc đẩy sớm thời gian nhập khẩu điện từ Lào về khu vực miền Bắc nếu điều kiện thuận lợi.

Ngoài ra, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cũng nêu rõ, ưu tiên phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo phục vụ xuất khẩu. Đến năm 2030, tăng quy mô xuất khẩu điện sang Campuchia lên khoảng 400 MW.

Dự kiến đến năm 2035, quy mô công suất xuất khẩu điện sang Singapore, Malaysia và các đối tác khác trong khu vực đạt khoảng 5.000 – 10.000 MW và duy trì với quy mô 10.000 MW đến năm 2050, có thể cao hơn tùy theo nhu cầu của bên nhập khẩu trên cơ sở có hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an ninh năng lượng trong nước và an ninh quốc phòng...

Bộ Công thương tính toán, đưa vào vận hành khoảng 4.000 - 6.400 MW điện hạt nhân vào giai đoạn 2030 - 2035, có thể đẩy sớm tiến độ nếu điều kiện thuận lợi.

Về phương án phát triển lưới điện, giai đoạn 2025 - 2030, kế hoạch là xây dựng mới 102.900 MVA và cải tạo 23.250 MVA trạm biến áp 500 kV; xây dựng mới 12.944 km và cải tạo 1.404 km đường dây 500 kV; xây dựng mới 105.565 MVA và cải tạo 17.509 MVA trạm biến áp 220 kV; xây dựng mới 15.307 km và cải tạo 5.483 km đường dây 220 kV.

Định hướng giai đoạn 2031 - 2035 sẽ xây dựng mới 26.000 - 36.000 MW dung lượng trạm chuyển đổi điện cao áp một chiều (trạm HVDC) và 3.500 - 6.600 km đường dây truyền tải cao áp một chiều (HVDC). Xây dựng mới 73.800 MVA và cải tạo 36.600 MVA trạm biến áp 500 kV; xây dựng mới 7.480 km và cải tạo 650 km đường dây 500 kV; xây dựng mới 44.500 MVA và cải tạo 34.625 MVA trạm biến áp 220 kV; xây dựng mới 4.296 km và cải tạo 624 km đường dây 220 kV.

Định hướng giai đoạn 2036 - 2050: Xây dựng mới 26.000 - 36.000 MW dung lượng trạm HVDC và 3.600 - 6.700 km đường dây HVDC; xây dựng mới 24.000 MVA dung lượng trạm chuyển đổi điện cao áp xoay chiều (trạm HVAC) trên 500 kV và 2.500 km đường dây truyền tải cao áp xoay chiều HVAC trên 500kV; xây dựng mới 72.900 MVA và cải tạo 102.600 MVA trạm biến áp 500 kV; xây dựng mới 7.846 km và cải tạo 750 km đường dây 500 kV; xây dựng mới 81.875 MVA và cải tạo 103.125 MVA trạm biến áp 220 kV; xây dựng mới 5.370 km và cải tạo 830 km đường dây 220 kV.

Về nhu cầu vốn đầu tư, quyết định nêu rõ, giai đoạn 2026 - 2030, tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 136,3 tỷ USD; giai đoạn 2031 - 2035 đạt mức 130,0 tỷ USD và đến giai đoạn 2036 - 2050, con số này sẽ tăng lên 569,1 tỷ USD.

Như vậy, tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện giai đoạn 2026 - 2050 dự kiến ở mức 835,4 tỷ USD.

Trước đó, Quy hoạch Điện VIII được ban hành ngày 15/5/2023. Sau hơn 1 năm thực hiện, vào cuối năm 2024, Bộ Công thương đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình thực hiện và đề xuất điều chỉnh.

Lý do được Bộ Công thương nhắc tới là tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm giai đoạn 2021-2025 như dự báo trong Quy hoạch Điện VIII (dự kiến đạt 9,08%) khó khả thi, nên cần thiết phải rà soát, cập nhật lại tình hình phát triển kinh tế - xã hội để chuẩn xác lại tình hình phát triển phụ tải, làm cơ sở để rà soát, định hướng lại tình hình phát triển nguồn và lưới điện trong giai đoạn tiếp theo.

Bên cạnh đó, dự án điện gió trên bờ triển khai chậm hơn dự kiến, điện gió ngoài khơi chưa khả thi, dư địa từ điện than và thuỷ điện không còn nhiều...

Minh Minh - Kiều Trang

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục