
Đây là chia sẻ được nhiều chuyên gia đề cập tại tọa đàm “Hợp tác xúc tiến đầu tư bất động sản công nghiệp cho công nghiệp hỗ trợ vùng đồng bằng sông Hồng” do DTJ Industrial và Liên minh Công nghiệp G20 phối hợp tổ chức sáng 21/3.
Theo ông Phan Đăng Tuất, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam, thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ”, xuất hiện từ khi có sự phân công trong các giai đoạn sản xuất ở mức độ cao.
Các giai đoạn trong quá trình sản xuất sẽ được chuyên môn hóa tại các cơ sở khác nhau, sau đó cung cấp cho doanh nghiệp gia công lắp ráp để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Với cách tiếp cận tổng quát, công nghiệp hỗ trợ được hiểu là toàn bộ hoạt động sản xuất nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp.
Là ngành cung cấp nguyên liệu cho các ngành sản xuất và lắp ráp công nghiệp, công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp và kinh tế quốc gia. Khi quốc gia tự chủ được nguồn cung nguyên liệu, nền kinh tế sẽ giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu, từ đó tăng khả năng chống chịu trước các biến động toàn cầu.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ không chỉ giúp cân bằng cán cân thương mại, giảm xuất khẩu tài nguyên thô và sản phẩm sơ cấp, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu, mà còn khai thác tối đa nguồn lực trong nước. Hơn nữa, công nghiệp hỗ trợ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, tạo điều kiện cho hệ thống sản xuất công nghiệp trở nên chuyên môn hóa từng giai đoạn, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất một cách toàn diện.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam vẫn còn thiếu và yếu, với khả năng tham gia vào chuỗi giá trị.
![]() |
Toàn cảnh tọa đàm. |
Thực tế các doanh nghiệp quy mô còn rất nhỏ chưa làm chủ được máy móc, thiết bị để có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn do các doanh nghiệp lớn yêu cầu, nên gần như bất lực đứng ngoài chuỗi cung ứng. Ngoài ra, chất lượng của đội ngũ lãnh đạo cũng như nhân sự, lao động của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nói chung còn yếu.
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam liên tục đón các doanh nghiệp FDI, việc để doanh nghiệp Việt phát triển, có vị trí then chốt hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu với những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, thì buộc phải có những đột phá trong thể chế, chính sách. Đặc biệt, cần những giải pháp đồng bộ và thực hiện quyết liệt nhằm khắc phục cơ bản điểm nghẽn mà nhà đầu tư nước ngoài cũng như doanh nghiệp trong nước đã liên tục kiến nghị.
Trong đó, nhất thiết phải xác định lại đúng vai trò của công nghiệp hỗ trợ, từ đó xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia, thậm chí phải xây dựng Luật Công nghiệp hỗ trợ để tạo ra cơ chế phát triển rộng hơn cho ngành này, từ đó tạo điều kiện cho các nhà sản xuất nội địa có thể phát triển
Đồng quan điểm, ở góc độ doanh nghiệp tham gia vào chuỗi công nghiệp sản xuất công nghệ cao, ông Nguyễn Tử Quảng, Chủ tịch BKAV cho rằng, hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động từ đối tác nước ngoài đến doanh nghiệp trong nước còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, tình trạng liên kết yếu và chưa chặt chẽ thể hiện qua tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước vẫn còn thấp. Vì vậy, cải thiện hơn nữa tỷ lệ nội địa hóa là yêu cầu đặt ra để thu hút nhiều hơn nữa nguồn FDI.
Hầu hết quốc gia đều xây dựng chính sách để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp. Công nghiệp hỗ trợ ra đời với mục đích phục vụ quá trình sản xuất, vì vậy sản phẩm thường gắn liền và phụ thuộc vào sự thay đổi cung - cầu của các sản phẩm chính trong ngành công nghiệp. Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ.
Vì vậy, ông Quảng cho rằng, cần phải tạo một cơ chế để kết nối ngành công nghiệp trong nước cùng sự phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, khi đó mới hỗ trợ doanh nghiệp trong nước phát triển bền vững hơn. Trong Đề án Phát triển kinh tế tư nhân sắp tới, ông Quảng cho hay, sẽ đề xuất về xây dựng luật riêng cho công nghiệp hỗ trợ và đưa công nghiệp hỗ trợ nâng tầm vào chương trình mục tiêu trọng điểm quốc gia, từ đó hy vọng sẽ góp phần giúp cho ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển.
Với các doanh nghiệp, ông Quảng cho rằng, các doanh nghiệp Việt phải nỗ lực khẳng định thế mạnh của mình, đảm bảo có thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng và đổi mới hiệu quả để bước chân vững chắc vào chuỗi cung ứng ngoại chất lượng cao. Chỉ khi đạt được mức nội địa hoá cao hơn, ngành công nghiệp Việt Nam mới có thể tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đóng góp tích cực vào nền kinh tế quốc gia.
Ở góc độ khác, ngoài cơ chế chính sách, một vấn đề cần giải bài toán quỹ đất dành cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Thực tế cho thấy, quỹ đất dành cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ khá hạn chế là một trong những yếu tố khiến ngành này chưa phát triển mạnh dù có chính sách kích cầu riêng.
Khảo sát của DTj Industrial cho hay, dù quỹ đất sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố vẫn còn, nhưng việc chủ đầu tư các khu công nghiệp thường phân lô diện tích lớn ưu tiên cho các doanh nghiệp lớn để tránh phải điều chỉnh quy hoạch và giảm chi phí đầu tư hạ tầng điện, nước, nước thải, đường giao thông nội bộ… khiến cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nhỏ của Việt Nam khó khăn trong việc tìm kiếm các quỹ đất phù hợp phát triển doanh nghiệp của mình.
Do đó, theo bà Trần Thị Thu Hiền, Tổng giám đốc DTj Group, trong thời gian tới, cần tạo thêm nhiều quỹ đất sản xuất cho ngành công nghiệp hỗ trợ với giá thành hợp lý để các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có thể mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất và tự tin vượt qua những rào cản về năng suất, chất lượng để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ngoài ra, các khu công nghiệp trong nước cũng cần chuyển đổi theo hướng chuyên sâu, đa chức năng, nhằm nâng sức cạnh tranh. Việc quy hoạch khu, cụm công nghiệp hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao cần tính đến khả năng tạo chuỗi liên kết ngành cho doanh nghiệp nội tham gia. Đặc biệt, cần phát triển theo nguyên tắc bảo đảm tính kết nối cung – cầu, hiệu quả giữa các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đầu - cuối, lan tỏa công nghệ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; bảo đảm tính liên kết mở giữa các doanh nghiệp trong khu/cụm công nghiệp với các doanh nghiệp bên ngoài và liên kết với các doanh nghiệp khác của các vùng kinh tế trọng điểm.