Quan điểm trên được đưa ra tại Hội thảo quốc tế “Thông lệ tốt nhất về tài chính nông nghiệp, nông thôn vì người nghèo - kinh nghiệm của Việt Nam” do Ngân hàng Chính sách xã hội phối hợp với Hiệp hội tín dụng Nông nghiệp nông thôn châu Á - Thái Bình Dương (APRACA), Quỹ Phát triển Nông nghiệp quốc tế (IFAD).
Ông có thể cho biết, APRAC đã đóng góp như thế nào đối với phát triển tín dụng nông nghiệp nông thôn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Việt Nam nói riêng?
APRACA thành lập năm 1977 là hiệp hội khu vực của các tổ chức tài chính phát triển có chung mong muốn tăng cường tiếp cận tài chính cho nông dân, ngư dân, doanh nghiệp vừa và nhỏ và các cộng đồng nông thôn thông qua hoạt động nghiên cứu, nâng cao năng lực, tư vấn và chia sẻ kiến thức.
Ông Prasun Kumar Das, Tổng Thư ký APRACA trả lời phỏng vấn báo chí.
APRACA cũng là tổ chức thành viên của một số hiệp hội toàn cầu khác (AFRACA, NENARACA, ALIDE and CICA) với chung mục đích đưa tài chính nông nghiệp nông thôn đến với những người nghèo khó nhất để đạt các mục tiêu thiên niên kỷ.
Hiện nay, APRACA có 83 tổ chức thành viên tại 24 nước thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương với 5 văn phòng (Thư ký tại Bangkok, Trung tâm đào tạo tại Manila, Dịch vụ tư vấn tại Jakarta, Xuất bản tại Mumbai và Trung tâm nghiên cứu tại Bắc Kinh).
APRACA đóng góp vào sự phát triển của tín dụng nông nghiệp nông thôn tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Việt Nam chủ yếu thông qua 5 trụ cột hành động.
Đó là đối thoại và chia sẻ kinh nghiệm xây dựng chính sách, gồm: Cung cấp những cơ hội đối thoại chính sách ở cấp quốc gia và khu vực về quản trị rủi ro; Nâng cao chất lượng tín dụng; Tài trợ theo chuỗi giá trị; Sản xuất lương thực trong thời kỳ biến đổi khí hậu; Phát triển nông thôn “thông minh” và Tài trợ doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ.
Trụ cột số 2 là xây dựng năng lực và thể chế: Tổ chức đào tạo/ hội nghị/ hội thảo; Nghiên cứu thực địa/chia sẻ kinh nghiệm; Trợ giúp để nâng cao năng lực cho các tổ chức Tài chính vi mô; Thiết kế các chương trình hỗ trợ kỹ thuật.
Trụ cột số 3 là triển khai các dự án: Thiết kế và xúc tiến các dự án; Triển khai dự án trên thực địa; Giám sát và đánh giá dự án; Báo cáo và đánh giá;
Tiếp đến là nghiên cứu phát triển và tư vấn: Nghiên cứu chính sách; Xây dựng các bộ tài liệu chia sẻ kinh nghiệm về sáng kiến và thông lệ tốt nhất; Nghiên cứu thực địa để xây dựng những báo cáo riêng cho từng quốc gia; Nghiên cứu những hành động chính sách thành công để nhân rộng hoặc thử nghiệm mới.
Cuối cùng là quản lý kiến thức chung: Phát hành các ấn phẩm về nghiên cứu và kỹ thuật; Quản lý và cung cấp các nguồn tư liệu; Phổ biến kiến thức thông qua website và đào tạo trực tuyến; Chia sẻ và trao đổi thư viện trực tuyến.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia tích cực vào phát triển tài chính nông nghiệp nông thôn để mang lại sự phát triển toàn diện trên toàn quốc và đã tuân thủ các nguyên tắc của các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp quốc.
APRACA đang hỗ trợ hai ngân hàng (Ngân hàng Chính sách xã hội và Agribank) xây dựng năng lực để đạt các mục tiêu đó thông qua trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức khác, thăm quan các mô hình thành công nhất và đào tạo cán bộ.
APRACA cũng hỗ trợ hai tổ chức thành viên ở Việt Nam xây dựng các thể chế ở nông thôn nhằm cung cấp tín dụng cần thiết cho việc phát triển và khởi nghiệp.
Đồng thời, APRACA cam kết ủng hộ mọi sáng kiến ở Việt Nam để cải thiện dòng chảy tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp để hỗ trợ những cộng đồng đang sống phụ thuộc vào thời tiết ở đất nước này.
Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, một thành tựu mà nhiều nước trong khu vực chỉ có thể ghen tị.
Như ông cũng đã biết, Ngân hàng Chính sách xã hội đang áp dụng “phương pháp cung cấp tín dụng đặc thù” ở Việt Nam, ông có đánh giá gì về phương pháp này?
Ngân hàng Chính sách xã hội là tổ chức chiếm ưu thế nổi bật trong cung cấp tín dụng vi mô với khoảng 6,7 triệu người vay vi mô và gần 7 triệu người gửi tiết kiệm thường xuyên tính tới tháng 6 năm 2018.
Thị phần của Ngân hàng trong lĩnh vực tài chính vi mô chiếm khoảng 80% về lượng khách hàng và khoảng 70% về dư nợ.
Với gần 7 triệu người gửi tiết kiệm thường xuyên, Ngân hàng Chính sách xã hội đang là tổ chức có khả năng huy động tiết kiệm hiệu quả nhất trong số các đơn vị chủ chốt cung cấp dịch vụ tài chính vi mô với 70% thị phần. Điều này có được nhờ vào phương pháp tiếp cận khách hàng rất đặc thù của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Thành tựu này đạt được thông qua việc Ngân hàng Chính sách xã hội có độ tiếp cận sâu rộng đến 6,7 triệu khách hàng nhờ sự kết hợp giữa: Tập trung hướng tới nhóm đối tượng khách hàng vay chính sách kết hợp với việc cung cấp tín dụng “tại chỗ”. Bao phủ gần 11.000 xã thông qua mạng lưới điểm giao dịch cấp xã, có nhóm nhân viên của Ngân hàng Chính sách xã hội đến giao dịch hàng tháng.
Bên cạnh đó, chi phí cung cấp tín dụng thấp, việc thu nợ và xử lý nợ xấu của khách hàng được thực hiện thông qua: Duy trì họp hàng tháng của trên 180.000 tổ tín dụng tiết kiệm; Sự hỗ trợ có trả phí cho các tổ chức đoàn thể trong việc vận động, tuyên truyền, đào tạo khách hàng, thành lập nhóm cũng như hoạt động thu lãi.
Không thể nghi ngờ rằng vai trò của Ngân hàng Chính sách xã hội trong xóa đói giảm nghèo là rất đáng kể, nhưng cũng phải kể đến nỗ lực của Chương trình xóa đói giảm nghèo tổng thể của chính phủ. Bởi vì bên cạnh Ngân hàng Chính sách xã hội, còn phải kể đến “cách thức Việt Nam” của Chính phủ theo đuổi một cách kiên định và thống nhất chương trình này là lý do chính của một trong những thành tựu xóa đói giảm nghèo nhanh nhất khu vực.
Nhìn nhận vai trò của Ngân hàng Chính sách xã hội trong tiến trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, ông có cho rằng APRACA có thể rút ra bài học để phổ biến cho các thành viên hiệp hội?
Về mặt tích cực, Ngân hàng Chính sách xã hội đã tạo ra một hệ thống cung cấp tín dụng và thu nợ hiệu quả, làm giảm chi phí giao dịch cho khách hàng và bản thân ngân hàng đồng thời đạt được mức độ bao phủ ấn tượng đến tận cấp xã.
Với sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ, ngân hàng đã phối hợp với UBND địa phương và các tổ chức đoàn thể từ cấp trung ương đến địa phương.
Qua các báo cáo cho thấy rõ ràng rằng việc lựa chọn khách hàng tương đối minh bạch và tỷ lệ thất thoát dường như chỉ là ngoại lệ chứ không phải phổ biến.
Trên nhiều phương diện, hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội phản ánh “cách thức Việt Nam” độc đáo của việc theo đuổi một chính sách dành riêng, kiên định và gắn kết từ cấp quốc gia đến cấp xã để đạt được các mục tiêu đề ra một cách nhất quán - một thành tựu mà nhiều nước trong khu vực chỉ có thể ghen tị.