Các chỉ số đòn bẩy tài chính

Đòn bẩy tài chính đề cập tới việc DN sử dụng nguồn tài trợ từ các khoản vay thay cho vốn cổ phần. Các phép đo đòn bẩy tài chính là công cụ để xác định xác suất DN mất khả năng thanh toán các hợp đồng nợ. DN càng nợ nhiều thì càng có nguy cơ mất khả năng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. Nói cách khác, nợ quá nhiều sẽ dẫn tới xác suất phá sản và kiệt quệ tài chính cao.
Xem xét biến động của dòng tiền là điều cần thiết và quan trọng. Xem xét biến động của dòng tiền là điều cần thiết và quan trọng.

Về phía tích cực, nợ là một dạng tài trợ tài chính quan trọng và tạo lợi thế lá chắn thuế cho DN, do lãi suất tiền vay được tính như một khoản chi phí hợp lệ và miễn thuế. Khi DN vay nợ, chủ nợ và chủ sở hữu cổ phần của DN có thể gặp phải những xung đột về quyền lợi. Chủ nợ có thể muốn DN thực hiện các khoản đầu tư ít rủi ro hơn so với mong muốn của những người đầu tư vào cổ phiếu của DN.

 

Chỉ số nợ

Chỉ số nợ được tính bằng việc chia tổng nợ cho tổng tài sản. Tổng số nợ ở đây bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn phải trả. Chủ nợ thường thích công ty có chỉ số nợ thấp, vì như vậy công ty có khả năng trả nợ cao hơn. Ngược lại, cổ đông muốn có chỉ số nợ cao, vì như vậy làm gia tăng khả năng sinh lợi cho cổ đông. Tuy nhiên, muốn biết chỉ số này cao hay thấp thì cần phải so sánh với chỉ số nợ của bình quân ngành. Chỉ số nợ càng thấp thì mức độ bảo vệ dành cho các chủ nợ càng cao trong trường hợp DN rơi vào tình trạng phá sản và phải thanh lý tài sản.

Các chỉ số nợ cung cấp thông tin bảo vệ chủ nợ trong tình huống mất khả năng thanh toán của DN và thể hiện năng lực tiếp nhận các nguồn tài chính từ bên ngoài, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển của DN. Tuy nhiên, nợ được thể hiện bảng cân đối kế toán chỉ đơn thuần là một khoản chưa trả. Do vậy, không có bất kỳ sự điều chỉnh nào về mức lãi suất áp dụng (có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với thời điểm phát sinh khoản nợ) hoặc điều chỉnh do biến động rủi ro được thể hiện. Trên thực tế, giá trị kế toán của các khoản nợ có thể khác rất nhiều so với giá trị thị trường. Một số hình thức nợ không được thể hiện trên bảng cân đối kế toán như nghĩa vụ trả tiền hưu trí hay thuê tài sản.

 

Bao phủ lãi vay

Chỉ số bao phủ lãi vay được tính bằng cách chia thu nhập (trước thuế và lãi vay) cho lãi vay phải trả. Chỉ số này chú trọng khả năng DN tạo ra đủ thu nhập để trang trải lãi vay.

Lãi vay là khoản chi phí DN buộc phải vượt qua nếu không muốn phá sản. Chỉ số bao phủ lãi vay liên quan trực tiếp tới khả năng trả lãi vay của DN. Tuy nhiên, tính toán sẽ chính xác hơn khi cộng thêm khấu hao vào thu nhập và tính tới các khoản chi phí tài chính khác, như trả gốc vay và thanh toán phí thuê tài sản.

Một gánh nặng nợ lớn chỉ trở thành vấn đề nếu dòng tiền của DN không đủ để thực hiện các nghĩa vụ trả nợ. Điều này liên quan tới dòng tiền trong tương lai vốn rất không ổn định. DN với dòng tiền trong tương lai có khả năng dự báo ổn định được đánh giá có năng lực vay nợ tốt hơn DN có dòng tiền cao nhưng bất ổn. Do vậy, xem xét biến động của dòng tiền là điều cần thiết và quan trọng. Một biện pháp phổ biến là tính toán độ lệch chuẩn của dòng tiền so với dòng tiền bình quân.

Bộ phận Tư vấn và Phân tích, CTCK Hà Nội - HSSC
Bộ phận Tư vấn và Phân tích, CTCK Hà Nội - HSSC

Tin cùng chuyên mục