“Bộ tứ trụ cột” thúc đẩy kinh tế số Việt Nam

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Tại hội thảo “Phát triển kinh tế số trong kỷ nguyên mới” do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức, các chuyên gia đầu ngành đã vẽ nên bức tranh toàn cảnh về hiện trạng và triển vọng của kinh tế số Việt Nam tại thời điểm công nghệ số không còn là một lựa chọn mà trở thành nền tảng quan trọng cho tăng trưởng.
Các diễn giả thảo luận tại hội thảo “Phát triển kinh tế số trong kỷ nguyên mới” do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức. Ảnh: Chí Cường Các diễn giả thảo luận tại hội thảo “Phát triển kinh tế số trong kỷ nguyên mới” do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức. Ảnh: Chí Cường

Hạ tầng số phát triển mạnh mẽ, tạo nền tảng vững chắc

Chia sẻ tại hội thảo, ông Nguyễn Phong Nhã, Phó cục trưởng Cục Viễn thông, Bộ Khoa học và Công nghệ, đánh giá khung pháp lý cho kinh tế số đã và đang được hoàn thiện với tốc độ nhanh hơn trước. Các chính sách mới được đưa vào cuộc sống trong một thời gian ngắn, tạo nên môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch, tạo điều kiện cho các hoạt động trên môi trường số nhanh chóng, thuận lợi, đáng tin tưởng.

Để thúc đẩy phát triển hơn nữa nền kinh tế số quốc gia, 4 nghị quyết chiến lược đột phá mới được ban hành, bao gồm Nghị quyết 57, Nghị quyết 59, Nghị quyết 66, Nghị quyết 68. “Bộ tứ trụ cột” này tập trung vào các chính sách đột phá về khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế, cải cách hệ thống pháp luật, phát triển doanh nghiệp tư nhân. Đây không phải chỉ là những văn bản trên giấy, mà là cơ sở pháp lý thiết yếu để các hoạt động kinh doanh số diễn ra an toàn, minh bạch và là động lực quan trọng cho nền kinh tế số.

Về phía hạ tầng, năng lực của mạng viễn thông Việt Nam được đánh giá là một điểm mạnh. Đại diện cơ quan quản lý dẫn ví dụ về khả năng khôi phục mạng sau thiên tai, khi có những đợt bão lũ làm hư hại nghiêm trọng hạ tầng nhưng các nhà mạng vẫn đưa hệ thống trở lại hoạt động gần như bình thường chỉ trong khoảng từ hai đến ba ngày. Trong bối cảnh kinh tế số phụ thuộc hoàn toàn vào kết nối, khả năng phục hồi nhanh như vậy được xem là yếu tố sống còn.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Hoàng Văn Ngọc, Giám đốc Chiến lược Tập đoàn Viettel, đưa ra những con số cụ thể cho thấy mức độ đầu tư hạ tầng số. Viettel đang vận hành 14 trung tâm dữ liệu (Data Center – nơi đặt máy chủ để lưu trữ và xử lý khối lượng dữ liệu rất lớn cho doanh nghiệp, cơ quan nhà nước và dịch vụ số của người dân), với định hướng đến năm 2030 nâng tổng công suất lên khoảng 300 MW, phân bổ tại cả ba miền.

Cùng với đó là mạng 5G với hàng chục nghìn trạm phát sóng đã được triển khai, nhằm hướng tới mục tiêu phủ sóng phần lớn dân số trong vài năm tới.

Bên cạnh hạ tầng, một số doanh nghiệp lớn trong nước cũng đầu tư mạnh vào an ninh mạng và trí tuệ nhân tạo (AI). An ninh mạng là tập hợp các biện pháp kỹ thuật và quy trình để bảo vệ hệ thống, dữ liệu trước tấn công, đánh cắp hoặc phá hoại. Trí tuệ nhân tạo là công nghệ cho phép máy tính “học” từ dữ liệu để tự động nhận diện mẫu, đưa ra gợi ý hoặc hỗ trợ ra quyết định. Các lĩnh vực này không chỉ mang lại doanh thu trực tiếp mà còn là lớp bảo vệ và công cụ hỗ trợ quan trọng cho mọi hoạt động số khác.

Ông Ngọc nhận diện 4 xu hướng đang dẫn dắt kinh tế số Việt Nam: AI hóa mọi thứ – trở thành động lực chung; Dữ liệu – khai thác, phân tích, ứng dụng và xây dựng hệ sinh thái; Cloud – dịch chuyển toàn diện lên môi trường đám mây; Đổi mới sáng tạo – trên nền tảng số và hệ sinh thái dữ liệu.

Ông Ngọc cho biết thêm, mục tiêu 30% GDP từ kinh tế số hoàn toàn khả thi trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam đang đạt “25–30% mỗi năm”. Việt Nam còn sở hữu nhiều lợi thế về quy mô người dùng số, năng lực hạ tầng, lao động công nghệ và chuyển dịch sang sản xuất sản phẩm số.

“Việt Nam hoàn toàn có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế số. Chúng ta có Chính phủ năng động cởi mở, thúc đẩy thay đổi thể chế và khát khao chuyển đổi. Thứ hai là quy mô lớn về thuê bao số. Tiếp nữa, chúng ta có hạ tầng viễn thông hiện đại hàng đầu trên thế giới. Viettel tính đến hết 2025 đã có 28.000 trạm 5G và vùng phủ trên dân số đạt 90%. Cuối cùng, chúng ta có lực lượng lao động trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin tốt so với mặt bằng khu vực. Quan trọng hơn nữa là Việt Nam đã biến mình từ bên tiêu dùng sản phẩm số thành bên sản xuất sản phẩm số, có thể tiến tới xuất khẩu vì có lợi thế trong lĩnh vực này”, đại diện Viettel khẳng định.

Còn ở VNPT, ông Lê Xuân Sơn, Phó Tổng Giám đốc VNPT-IT, cho rằng con người là nhân tố then chốt quyết định thành công. Ông Sơn nhận định: “Công nghệ chỉ là nền tảng vận hành và là công cụ, còn khi nói về thực thi thì con người là yếu tố chủ đạo nhất”.

Ông Sơn cũng cho rằng bộ tứ nghị quyết đang tạo thành “một cỗ máy thúc đẩy kinh tế số”, nhưng Việt Nam vẫn cần cải thiện sandbox và phát triển thêm nền tảng “make in Vietnam”.

Điểm đến đầu tư đáng tin cậy

Không chỉ vậy, cơ sở hạ tầng viễn thông của Việt Nam cũng rất tốt, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế với công nghệ tiên tiến, tương đương với các nước phát triển trên thế giới, đưa công nghệ 5G phát triển, đưa cáp quang mở rộng khắp nơi, cho thấy sự nỗ lực của các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam. Các công nghệ điện toán đám mây cũng đã sẵn sàng cho hạ tầng, tạo dựng nên một hạ tầng viễn thông hiện đại, bền vững, có tính dự phòng cao, độ bao phủ tốt.

Đây là minh chứng cho thấy Việt Nam có thể đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và sẵn sàng cho việc đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam.

"Từ phía châu Âu, các doanh nghiệp hiện nay đang rất tin tưởng vào các khoản đầu tư vào Việt Nam. Điều này được thể hiện qua khảo sát các quý của EuroCham. So với hai năm trước đây, chỉ số niềm tin của các nhà đầu tư châu Âu đã tăng lên rất nhiều"., ông Yves Vanderstraeten, Phó chủ tịch Ban Kỹ thuật số, EuroCham, thông tin thêm.

Dẫn chứng thêm, ông Vanderstraeten cho biết, Việt Nam đã tăng 15 bậc trong chỉ số Chính phủ số của Liên Hợp quốc - từ 86 lên 71 - phản ánh “cam kết mạnh mẽ cũng như những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong một thời gian rất ngắn”.

Thực thi chính sách - Khoảng cách giữa kỳ vọng và thực tế

Tuy nhiên, bức tranh không chỉ toàn màu sáng. Ông Lê Xuân Sơn từ VNPT-IT thẳng thắn chỉ ra khoảng cách giữa chính sách và thực thi. Dù có "bộ tứ nghị quyết" quan trọng - Nghị quyết 52 về công nghệ dẫn dắt, Nghị quyết 66 về cải cách thể chế, Nghị quyết 59 hỗ trợ doanh nghiệp và Nghị quyết 68 thúc đẩy kinh tế tư nhân - nhưng việc triển khai vào thực tế vẫn chưa đạt kỳ vọng. Ông đặt câu hỏi về số lượng Sandbox thực sự đã được triển khai tại Việt Nam và liệu chúng có được đầu tư đúng mức hay không.

Một vấn đề được nêu ra là thiếu vắng các nền tảng công nghệ "Make in Vietnam" - những hệ thống thông tin điều hành do Việt Nam tự phát triển. Ông Sơn cũng nhấn mạnh về việc thiếu hành lang pháp lý cho AI, khi Luật về AI chưa được ban hành, gây khó khăn cho các doanh nghiệp muốn đầu tư vào lĩnh vực này. "Một năm trong công nghệ là một sự khủng khiếp cho thị trường", ông cảnh báo về tốc độ thay đổi công nghệ so với tốc độ hoàn thiện pháp luật.

Bà Bùi Kim Thùy, Phó chủ tịch President Club, mang đến một góc nhìn khá cân bằng. Bà ghi nhận rằng người dân Việt Nam đang được sử dụng dịch vụ Internet và 5G với chất lượng tốt và mức giá thấp so với nhiều quốc gia. Thanh toán điện tử đã lan rộng, từ cửa hàng lớn đến các quầy hàng nhỏ, với việc dùng mã QR. Điều này cho thấy nền tảng người dùng và thói quen số đã hình thành khá mạnh.

Tuy nhiên, bà Thùy cũng chỉ ra thách thức trong khối doanh nghiệp nhà nước khi tiếp cận các mô hình thử nghiệm như sandbox. Bà cho rằng việc áp dụng sandbox đối với các tập đoàn nhà nước là "khó vô cùng". Lý do là các doanh nghiệp tư nhân có thể chấp nhận lỗ để thử nghiệm, nhưng doanh nghiệp nhà nước mang trọng trách bảo toàn vốn và thực hiện nhiệm vụ chính trị, nên "chỉ cần lỗ một năm là chết". Đây là một nút thắt về cơ chế cần được Chính phủ tháo gỡ.

Qui Ánh

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục