Trong Báo cáo kinh tế thường niên, BIS cho biết ngành ngân hàng dự kiến sẽ có sự khác biệt lớn hơn trong quỹ đạo lãi suất chính sách, đặc biệt là giữa Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương khác, điều này sẽ đặt ra những câu hỏi rộng hơn về tác động của chúng đối với dòng vốn và thị trường tài chính.
“Nhìn chung, các ngân hàng trung ương trên thế giới cho đến nay đã làm rất tốt việc kiềm chế lạm phát. Nhưng, công việc vẫn chưa kết thúc… Nếu lãi suất tiếp tục cao hơn và đồng đô la Mỹ vẫn mạnh hơn, liệu hệ thống có thể tiếp tục đối mặt với áp lực hay không vẫn còn phải xem”, Zhang Tao, Trưởng đại diện văn phòng BIS khu vực châu Á và Thái Bình Dương cho biết.
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, các ngân hàng trung ương đã áp dụng chế độ lạm phát mục tiêu linh hoạt hoặc không linh hoạt, được hỗ trợ bởi tỷ giá hối đoái linh hoạt. Do đó, các nguyên tắc cơ bản của các nền kinh tế mới nổi đã tốt hơn so với thời kỳ khó khăn đó.
“Một trong những bài học từ quá khứ là các biện pháp chính sách cần có biên độ an toàn và hoạt động hiệu quả trong giới hạn ổn định… Ví dụ, tác động của thời gian lãi suất thấp kéo dài trước Covid-19 đã mang lại những hạn chế và tác dụng phụ nhẹ. Khi cảm nhận được áp lực, câu hỏi đặt ra là liệu các chính sách có còn hiệu quả như mong đợi hay không”, ông Zhang Tao cho biết.
Hiện vẫn chưa rõ Fed sẽ duy trì lãi suất chuẩn ở mức cao nhất trong 23 năm là 5,25-5,5% trong bao lâu, nhưng sự chênh lệch lãi suất lớn giữa Mỹ và các nước châu Á như Trung Quốc và Nhật Bản đã gây thêm căng thẳng cho những tiền tệ này.
Theo nghiên cứu được công bố vào tuần trước bởi ngân hàng đầu tư Pháp Natixis, đồng nhân dân tệ đang phải đối mặt với mức dòng vốn chảy ra cao nhất trong 8 năm. Natixis ước tính dòng vốn ra ròng trong 12 tháng qua của Trung Quốc ở mức 139 tỷ USD tính đến tháng 5/2024, là năm tồi tệ nhất kể từ giai đoạn 2016 đến 2017.
Đà phục hồi hậu Covid của Trung Quốc phần lớn không đồng đều, khi một số nhà kinh tế bày tỏ lo ngại về sự phụ thuộc của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vào xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng. Tiêu dùng suy yếu ở Trung Quốc đã hạn chế giá tiêu dùng kể từ năm 2023, bất chấp nhiều đợt phản ứng chính sách do niềm tin vẫn ở mức thấp trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kéo dài trong lĩnh vực bất động sản.
Báo cáo của BIS ước tính rằng sự kết hợp giữa giá cả giảm ở Trung Quốc và đồng tiền mất giá đã khiến giá trị thực của đồng nhân dân tệ mất giá 13% trong khoảng thời gian từ đầu năm 2022 đến đầu năm 2024.
BIS cho biết: “Sự mất giá của đồng nhân dân tệ so với nhiều loại tiền tệ khác càng thúc đẩy khả năng cạnh tranh của Trung Quốc, khuếch đại tác động của tình trạng giảm phát trong nước đối với khối lượng xuất khẩu”.
Báo cáo cho biết, không giống như nhiều nền kinh tế phát triển khác, lạm phát ở Trung Quốc ở mức thấp, với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) dao động quanh mức 0 kể từ tháng 4/2023.
BIS cho biết giá sản xuất cũng giảm cũng như tác động của nhu cầu nội địa yếu hơn đối với giá hàng hóa ước tính đã làm giảm tốc độ tăng giá nhập khẩu hàng năm ở các nền kinh tế lớn khác trung bình khoảng 5 điểm phần trăm so với năm 2023.
Trong khi đó, các quốc gia có xuất khẩu của Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng lượng nhập khẩu như Úc, Brazil và Ấn Độ sẽ có mối tương quan cao hơn giữa giá cả giảm và giá nhập khẩu thấp hơn.
BIS trích dẫn các nghiên cứu khác ước tính rằng việc giá nhập khẩu giảm 5,8 điểm phần trăm cuối cùng sẽ dẫn đến tỷ lệ lạm phát CPI trung bình thấp hơn ở mức 1,5 điểm phần trăm, mặc dù sẽ có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia.