Quá trình theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng thời gian qua cho thấy, liên quan đến khía cạnh pháp lý của biện pháp bảo lãnh vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện trên nền tảng các quy định có liên quan của Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ 1/1/2017).
Nội hàm của một số cụm từ chưa được giải thích rõ ràng
Thực tế, nội hàm của một số cụm từ trong quan hệ bảo lãnh chưa được giải thích cụ thể, rõ ràng tại các văn bản quy phạm pháp luật nên dẫn đến cách hiểu, áp dụng thiếu thống nhất, đồng bộ trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng bảo lãnh.
Ví dụ, Ngân hàng TMCP V. có phát hành chứng thư bảo lãnh cho Ngân hàng Q. - Chi nhánh Bắc Sài Gòn nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ tài chính của Công ty cổ phần Thương mại dịch vụ xây dựng TT (Công ty TT) tại Ngân hàng TMCP Q. - Chi nhánh Bắc Sài Gòn theo Hợp đồng số 122 ngày 20/12/2010 (hợp đồng số 122) giữa Công ty TT và Tổng công ty VTQĐ - Chi nhánh TP.HCM.
Trong chứng thư có nêu, Ngân hàng V. “cam kết chi trả vô điều kiện” cho Ngân hàng Q. ngay khi nhận được văn bản yêu cầu thanh toán nếu Công ty TT không thực hiện nghĩa vụ tài chính phát sinh tại Ngân hàng Q. theo hợp đồng số 122. Tuy nhiên, Ngân hàng V nghi ngờ Công ty TT không phát sinh nghĩa vụ trên thực tế đối với Ngân hàng Q.
Trong trường hợp này, Ngân hàng V. phải thực hiện nghĩa vụ tài chính ngay khi Ngân hàng Q. - Chi nhánh Bắc Sài Gòn yêu cầu hay ngược lại, Ngân hàng V. có quyền yêu cầu Ngân hàng Q. phải xuất trình các chứng từ chứng minh nghĩa vụ của Công ty TT đã phát sinh và chỉ thực hiện nghĩa vụ tài chính sau khi Ngân hàng Q. xuất trình các chứng từ này?
Ví dụ trên cho thấy, một trong các nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp là do các bên trong quan hệ bảo lãnh đã có cách hiểu khác nhau về nội hàm của cụm từ “cam kết chi trả vô điều kiện”.
Nếu thỏa thuận như vậy thì Ngân hàng V. có được quyền yêu cầu Ngân hàng Q. xuất trình các tài liệu chứng minh không? Việc yêu cầu xuất trình các tài liệu chứng minh trước khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh có vi phạm thỏa thuận không?
Theo chúng tôi, vấn đề nêu trên nếu không được quy định cụ thể, rõ ràng thì sẽ tiếp tục dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật thiếu thống nhất giữa các bên trong quan hệ bảo lãnh.
Quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp: 2 quan điểm khác nhau
Nhận diện bản chất pháp lý của quan hệ bảo lãnh và quan hệ thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác (bên thế chấp và bên vay là 2 chủ thể độc lập) hiện còn thiếu thống nhất.
Theo nội dung Bản án sơ thẩm số 26/2011/KT-ST ngày 5/8/2011 và Bản án sơ thẩm số 48/2011/KDTM-ST ngày 22/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thì một trong những lý do dẫn đến hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba bị tuyên vô hiệu là có sự nhầm lẫn về hình thức hợp đồng.
Cụ thể, theo các bản án nêu trên thì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba thực chất phải là quan hệ bảo lãnh. Do đó, các bên phải ký kết hợp đồng bảo lãnh, chứ không phải hợp đồng thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba.
Việc các bên ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người thứ ba là không đúng với tính chất của giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh, không đúng với quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, hình thức giao dịch dân sự, hình thức bảo lãnh.
Vấn đề này tiếp tục có 2 loại quan điểm khác nhau, ngay cả khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực.
Loại ý kiến thứ nhất đồng ý với cách tiếp cận, giải thích nêu trên.
Trong khi đó, loại ý kiến thứ hai cho rằng, theo quy định tại Khoản 1, Điều 317, Bộ luật Dân sự năm 2015, thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp), nên chủ sở hữu tài sản có thể dùng tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của chính mình (bên thế chấp đồng thời là bên có nghĩa vụ) hoặc bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác (bên thế chấp và bên có nghĩa vụ là 2 chủ thể khác nhau).
Mặt khác, Điều 335, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Điều này càng phù hợp vì Luật Đất đai năm 2013 không tồn tại khái niệm “bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất”.
Kiến nghị, đề xuất
So với Bộ luật Dân sự năm 2005, các quy định về bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự năm 2015 (từ Điều 335 đến Điều 343) đã thể hiện được đầy đủ, sâu sắc hơn bản chất pháp lý của biện pháp bảo đảm đối nhân.
Ví dụ: Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bỏ quy định về xử lý tài sản của bên bảo lãnh (Điều 369, Bộ luật Dân sự năm 2005), thay vào đó là quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh (Điều 342).
Tuy nhiên, để tiếp tục khắc phục vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lãnh thì cần nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề sau.
Thứ nhất, tiếp tục quy định về các vấn đề liên quan đến bên bảo lãnh, ví dụ: quy định về việc bên bảo lãnh phải viết rõ giá trị tiền cam kết bảo lãnh bằng số và bằng chữ; quy định về việc bên nhận bảo lãnh có nghĩa vụ phải thông tin đối với bên bảo lãnh (tư vấn hoặc cảnh báo) về giá trị của nghĩa vụ bảo lãnh, khả năng tài chính của bên được bảo lãnh; quy định cụ thể về một số từ ngữ thường sử dụng trong hợp đồng bảo lãnh (chẳng hạn, “chi trả vô điều kiện”, “không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”)…
Thứ hai, quy định cụ thể trường hợp bên nhận bảo lãnh phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình trước; nếu bên được bảo lãnh không có tài sản thì bên nhận bảo lãnh mới có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Điều này là cần thiết nhằm phòng ngừa khả năng bên bảo lãnh chối bỏ trách nhiệm của mình, vì thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp bên bảo lãnh xác định mình là người có nghĩa vụ thứ hai và chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi người có nghĩa vụ chính (bên được bảo lãnh) không có khả năng thực hiện.
Thứ ba, quy định việc bên bảo lãnh có quyền viện dẫn tất cả những vi phạm về hình thức và nội dung mà bên được bảo lãnh có thể viện dẫn để không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, vì đây là một yếu tố mấu chốt, thể hiện tính phụ thuộc của biện pháp bảo lãnh đối với nghĩa vụ được bảo lãnh.
Bộ luật Dân sự chỉ đề cập đến tình huống pháp lý là người bảo lãnh được viện dẫn việc bù trừ nghĩa vụ, trong khi trên thực tế vẫn còn các trường hợp khác như: có sự nhầm lẫn, hoặc nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo lãnh không có hiệu lực.
Thứ tư, quy định về điều kiện đối với bên bảo lãnh, vì khả năng bên bảo lãnh thực hiện đầy đủ, đúng cam kết bảo lãnh là vấn đề đặc biệt quan trọng khi áp dụng biện pháp bảo lãnh. Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà pháp luật một số nước (ví dụ: Cộng hòa Pháp, Nhật Bản) quy định khả năng thanh toán nợ là một trong các điều kiện bắt buộc của bên bảo lãnh.
Ngoài ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần quy định cụ thể, rõ ràng phạm vi trách nhiệm và cách thức xử lý trách nhiệm về tài sản đối với các bên trong trường hợp bảo lãnh một phần và bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ (Khoản 1, Điều 336, Bộ luật Dân sự năm 2015).
Thứ năm, một trong những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005 là đã bổ sung quy định về việc có thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (Khoản 3, Điều 336, Bộ luật Dân sự năm 2015).
Tuy nhiên, để thống nhất cách hiểu và áp dụng quy định nêu trên trong thực tiễn thì cần sớm có quy định chi tiết về một số vấn đề như: hình thức hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ này khác gì với quan hệ cầm cố, thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ của người khác; cách thức xử lý tài sản bảo đảm được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; phạm vi trách nhiệm của bên bảo lãnh trong trường hợp này khác gì với các trường hợp thông thường khác…
Thực tiễn ký kết, thực hiện hợp đồng bảo lãnh cho thấy, nội dung thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh sẽ ngày càng phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể phát sinh tranh chấp, rủi ro pháp lý cho các bên.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện chế định bảo lãnh trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 có ý nghĩa thực tiễn, góp phần phát huy đầy đủ vai trò, giá trị của biện pháp bảo lãnh trong giao lưu dân sự, kinh doanh, thương mại.