Áp lực gia tăng với doanh nghiệp vay nợ lớn

(ĐTCK) Thị trường chứng khoán bước vào tháng cuối năm với trạng thái giằng co khi chỉ số vẫn neo cao nhưng dòng tiền suy yếu. Trong bối cảnh lãi suất có dấu hiệu tăng trở lại, áp lực chi phí vốn đang trở thành rủi ro hiện hữu đối với nhiều doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính lớn, buộc nhà đầu tư phải thận trọng hơn với triển vọng thị trường.
Chứng khoán và bất động sản sẽ là những nhóm cổ phiếu nhạy cảm nhất với xu hướng lãi suất

Cổ phiếu phân hóa

Diễn biến thị trường chứng khoán thời gian gần đây cho thấy sự phân hóa rõ nét. Trong khi chỉ số VN-Index vẫn được nâng đỡ bởi một số cổ phiếu vốn hóa lớn, đặc biệt là nhóm cổ phiếu Vingroup, phần còn lại của thị trường lại thiếu động lực tăng trưởng. Nhiều cổ phiếu, đặc biệt thuộc nhóm vốn hóa vừa và nhỏ, chịu áp lực bán đáng kể. Thậm chí, một số cổ phiếu lớn quay trở lại vùng giá đầu năm, xóa đi phần tăng tích lũy trước đó.

Đáng nói là, thanh khoản thị trường đã sụt giảm mạnh so với giai đoạn đỉnh điểm tháng 8/2025. Dòng tiền không còn lan tỏa rộng, mà có xu hướng tập trung cục bộ vào các cổ phiếu giữ nhịp chỉ số. Khi mặt bằng giá không còn rẻ và khả năng sinh lời ngắn hạn suy giảm, tâm lý phòng thủ của nhà đầu tư gia tăng, đặc biệt trong bối cảnh lãi suất có dấu hiệu nhích lên về cuối năm.

Áp lực margin cũng bắt đầu xuất hiện rõ hơn. Trường hợp gia đình Chủ tịch Tổng công ty cổ phần Đầu tư Phát triển Xây dựng (DIC Corp, mã DIG) bị bán giải chấp tổng cộng 935.800 cổ phiếu (trong đó, Chủ tịch Nguyễn Hùng Cường bị bán 634.300 cổ phiếu và em gái ông Cường là bà Nguyễn Thị Thanh Huyền bị bán giải chấp 301.500 cổ phiếu DIG) cho thấy rủi ro đòn bẩy tiềm ẩn, càng khiến nhà đầu tư thận trọng hơn khi tham gia thị trường ở vùng giá cao.

Ngoài ra, việc các ngân hàng dần kín room tín dụng vào cuối năm cũng ảnh hưởng trực tiếp tới dòng vốn trên thị trường chứng khoán. Hoạt động niêm yết mới của các công ty chứng khoán không đạt kỳ vọng, nhiều cổ phiếu giao dịch thấp hơn mức giá IPO, tạo thêm áp lực tâm lý và khiến thị trường thiếu động lực bứt phá.

Xét về mặt định giá, theo dữ liệu của Công ty Chứng khoán VNDirect, tính tới ngày 16/12/2025, P/E của VN-Index ở mức 15 lần, thấp hơn đỉnh 15,89 lần vào tháng 10/2025, nhưng vẫn cao hơn vùng trung bình 5 năm (dao động từ 9,82 lần đến 15 lần). Điều này cho thấy dù thị trường đã điều chỉnh, mặt bằng định giá vẫn chưa thực sự hấp dẫn để dòng tiền quay lại mạnh mẽ.

Nếu quan sát kỹ hơn ở cấp độ ngành và cổ phiếu, xu hướng điều chỉnh đã diễn ra rõ nét trong hơn 3 tháng trở lại đây. Nhiều cổ phiếu đã giảm giá khá mạnh và giao dịch dưới đường trung bình động MA 200, phản ánh khả năng bước vào kênh giảm giá trung và dài hạn.

Ở nhóm chứng khoán, mức giảm diễn ra khá sâu. Từ ngày 16/10 - 16/12/2025, thị giá cổ phiếu VIX đã giảm 42,1%, từ 39.550 đồng/cổ phiếu xuống 22.900 đồng/cổ phiếu. Thị giá VND giảm 29,5% trong thời gian từ ngày 4/9 - 16/12/2025, từ 26.800 đồng/cổ phiếu xuống 18.900 đồng/cổ phiếu. Hay thị giá BVS giảm 26,5% trong thời gian từ ngày 13/8 - 16/12/2025, từ 41.890 đồng/cổ phiếu xuống 30.800 đồng/cổ phiếu và hiện đang giao dịch dưới đường MA 200.

Nhóm bất động sản cũng điều chỉnh khá mạnh trong thời gian qua. Cổ phiếu DXS đã giảm 32,3% trong thời gian từ ngày 3/9 - 16/12/2025, từ mức 13.850 đồng/cổ phiếu xuống 9.370 đồng/cổ phiếu và đang giao dịch dưới đường MA 200. Thị giá cổ phiếu PDR giảm 25,7% trong cùng giai đoạn, từ 26.250 đồng/cổ phiếu xuống 19.500 đồng/cổ phiếu. Trong khi đó, thị giá SCR mất 26,7% trong thời gian từ ngày 14/8 - 16/12/2025, từ 10.400 đồng/cổ phiếu xuống 7.620 đồng/cổ phiếu.

Không chỉ bất động sản nhà ở, nhóm bất động sản khu công nghiệp - lĩnh vực cần nguồn vốn đầu tư lớn - cũng ghi nhận xu hướng giảm kéo dài. Từ ngày 13/8 - 16/12/2025, cổ phiếu SZC giảm 22,5%, từ 38.630 đồng/cổ phiếu xuống 29.950 đồng/cổ phiếu và giao dịch dưới đường MA 200 từ tháng 3/2025. Mã SIP giảm giá 22,4% trong giai đoạn từ ngày 24/7 - 16/12/2025, từ 67.250 đồng/cổ phiếu xuống 52.200 đồng/cổ phiếu. Đáng chú ý, thị giá cổ phiếu VGC giảm 35,6% từ ngày 19/8 - 16/12/2025, từ 64.600 đồng/cổ phiếu xuống 41.600 đồng/cổ phiếu.

Theo bà Đỗ Minh Trang, Giám đốc Phòng Phân tích Công ty Chứng khoán ACB (ACBS), khi ngành ngân hàng dần cạn room tín dụng vào cuối năm và lãi suất có xu hướng tăng, nguồn vốn và chi phí vốn đầu vào của các công ty chứng khoán sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp. Hệ quả là thanh khoản chung của thị trường chứng khoán suy giảm, điều đã bắt đầu quan sát từ giữa tháng 11 và trở nên rõ nét hơn trong tháng 12.

Theo dự báo của ACBS, lãi suất đầu vào bình quân các kỳ hạn của hệ thống ngân hàng trong năm 2026 có thể tăng thêm khoảng 1%/năm, thậm chí một số ngân hàng nhỏ có thể tăng tới 1,5%/năm. Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống được dự báo giảm tốc nhẹ so với năm 2025, đạt khoảng 16%. Hai xu hướng này sẽ tác động đồng thời tới nhiều ngành và doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán.

“Những ngành nhạy cảm với lãi suất theo hướng tiêu cực, bao gồm bất động sản và chứng khoán. Đây là hai ngành có tỷ lệ nợ vay cao hoặc hoạt động kinh doanh phụ thuộc trực tiếp vào môi trường lãi suất. Với bất động sản, nhu cầu vay mua nhà của người dân có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với lãi suất. Trong khi đó, thanh khoản thị trường chứng khoán và quy mô cho vay ký quỹ cũng chịu tác động trực tiếp từ biến động lãi suất”, bà Trang phân tích.

Doanh nghiệp vay nợ lớn đối diện sức ép chi phí vốn

Theo dữ liệu iBoard của Chứng khoán SSI, tỷ lệ tổng nợ vay phải trả lãi trên vốn chủ sở hữu của ngành bất động sản hiện ở mức 70%, phản ánh mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính cao.

Ngoài ra, trên sàn chứng khoán hiện nay còn nhiều doanh nghiệp khác có tỷ lệ nợ vay lớn. Tính tới ngày 30/9/2025, Công ty cổ phần Đầu tư Hạ tầng giao thông Đèo Cả (mã HHV) có dư nợ vay 11.977,3 tỷ đồng, tương đương 155,4% vốn chủ sở hữu, cao hơn mức trung bình ngành 116%. Tại Tổng công ty cổ phần Dịch vụ Tổng hợp Dầu khí (Petrosetco, mã PET), dư nợ vay đạt 6.337,4 tỷ đồng, bằng 246% vốn chủ sở hữu, vượt xa mức trung bình ngành 122%.

Công ty cổ phần Công nghệ Viễn thông Sài Gòn (Saigontel, mã SGT) ghi nhận dư nợ vay 3.709,3 tỷ đồng, tương đương 151,5% vốn chủ sở hữu, cao hơn mức trung bình ngành 70%. Trong khi đó, Công ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình (mã HBC) có dư nợ vay 4.011,8 tỷ đồng, bằng 204,4% vốn chủ sở hữu, so với mức trung bình ngành 116%.

Với dự báo mặt bằng lãi suất có thể tăng thêm khoảng 1%/năm trong năm 2026, áp lực chi phí tài chính đối với các doanh nghiệp có dư nợ vay lớn được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng. Đặc biệt, Xây dựng Hòa Bình hiện vẫn đang trong quá trình tái cơ cấu và ghi nhận lỗ lũy kế 2.081,96 tỷ đồng, tương đương 59,96% vốn chủ sở hữu tại thời điểm 30/9/2025.

Đối với Saigontel, nhu cầu vốn lớn để phục vụ hàng loạt dự án bất động sản công nghiệp quy mô lớn như Khu công nghiệp Đại Đồng - Hoàn Sơn giai đoạn 2 (Bắc Ninh), Cụm công nghiệp Tân Phú 1 và 2 (Thái Nguyên), Cụm công nghiệp Lương Sơn (Thái Nguyên), Khu công nghiệp Nam Tân Tập và Tân Tập (Long An), nhà xưởng cho thuê tại Khu công nghệ cao Đà Nẵng cùng các dự án văn phòng cho thuê tại Saigon ICT 1 và 2 trong Công viên Phần mềm Quang Trung, khiến doanh nghiệp tiếp tục chịu áp lực huy động vốn trong thời gian tới.

Dù vậy, lãi suất tăng không tác động tiêu cực tới mọi doanh nghiệp. Theo nhận định của chuyên gia ACBS, danh mục đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ chủ yếu là tiền gửi ngân hàng ngắn hạn, do đó, môi trường lãi suất tăng sẽ giúp hiệu suất đầu tư cải thiện. Ngược lại, lợi ích này không quá rõ rệt với các công ty bảo hiểm nhân thọ do danh mục đầu tư chủ yếu là trái phiếu chính phủ kỳ hạn dài.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có tỷ lệ tiền mặt trên tổng tài sản cao, nợ vay thấp cũng có khả năng hưởng lợi khi lãi suất tăng. Những ngành như dầu khí, hóa chất, nhựa, thủy sản hay một số doanh nghiệp thủy điện với dòng tiền ổn định được đánh giá là ít chịu tác động tiêu cực hơn, thậm chí có thể cải thiện hiệu quả tài chính trong bối cảnh mặt bằng lãi suất mới.

Duy Bắc

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục