500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam tạo ra bao nhiêu việc làm và tài sản cho xã hội?

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Sáng 10/8, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với Viện Konrad-Adenauer-Stiftung (KAS) tổ chức hội thảo đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500).
Doanh nghiệp tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng góp phần phát triển nền kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng góp phần phát triển nền kinh tế.

Tiến sỹ Lương Văn Khôi, Phó giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (NCIF) cho biết, khối doanh nghiệp tư nhân đang đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế trong nước và thực sự trở thành một động lực quan trọng trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, thực tế phát triển trong thời gian qua cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân trong nước vẫn gặp nhiều khó khăn do quy mô nhỏ, tích lũy ít, nền tảng năng suất, khoa học công nghệ cũng như môi trường kinh doanh chưa hoàn thiện. Số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường tăng nhanh nhưng tổng quy mô tăng không tương ứng.

Theo ông Florian Constantin Feyerabend, Trưởng đại diện Viện Konrad Andenauer Stiftung Việt Nam kinh tế tư nhân Việt Nam được công nhận từ những năm 1990 và ngày càng trở thành một khu vực quan trọng của nền kinh tế với 97% doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam thuộc khu vực tư nhân và đang tuyển dụng 60% lao động đang làm việc, tạo ra khoảng 67% doanh thu của toàn bộ doanh nghiệp.

Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Các doanh nghiệp nằm trong nhóm 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam đang đóng vai trò dẫn dắt thị trường, có ảnh hưởng đến nền kinh tế, giúp định hình kinh doanh và đóng góp của doanh nghiệp Việt Nam trong tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu.

Báo cáo phân tích về hoạt động của 500 doanh nghiệp tư nhân (VPE500), Tiến sỹ Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban dự báo kinh tế ngành và doanh nghiệp NCIF cho biết, doanh nghiệp tư nhân trong nước đang ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế. VBF 500 xuất hiện ở 57/63 tỉnh thành phố, đang hoạt động vượt trội so với doanh nghiệp tư nhân trong nước với quy mô lao động và tài sản bình quân cao hơn 83 lần và 132 lần doanh nghiệp tư nhân nói chung…

VPE500 có thể coi như lực lượng dẫn dắt và tạo ảnh hưởng trên thị trường và kết quả hoạt động của nhóm doanh nghiệp này có thể coi như hàn thử biểu của khu vực doanh nghiệp. Trong số 668,5 nghìn doanh nghiệp (số liệu năm 2019), doanh nghiệp tư nhân là 647,6 nghìn doanh nghiệp, chiếm 96,88% tổng số, đóng góp 15,12 triệu tỷ đồng (57%) tổng doanh thu thuần và thu hút hơn 9 triệu lao động.

Chỉ riêng nhóm 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (chiếm 0,089% tổng số doanh nghiệp) nhưng đã tạo việc làm cho 10,4% lao động, chiếm 13% tổng tài sản và tạo ra 15,8% doanh thu thuần.

Tuy nhiên, theo NCIF, năng suất lao động của VPE500 không tăng nhanh như quy mô, cho thấy nhóm doanh nghiệp lớn đang phát triển dựa trên mở rộng sản xuất hơn là theo chiều sâu. Năng suất lao động của VPE500 chỉ tăng khoảng 5,3%/năm, không quá vượt trội so với mức 4,6%năm của doanh nghiệp tư nhân trong nước khác và thấp hơn tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp nhà nước.

Xét trong giai đoạn 2016-2019 cho thấy quy mô của VPE500 tăng nhanh hơn các nhóm doanh nghiệp khác. Các VPE500 có tốc độ tăng tài sản khoảng 15,4%/năm so với khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước nói chung (5,6%/năm), doanh thu tăng 11,7%/năm so với 6,6%/năm.

VPE500 có các chỉ số tài chính ngắn hạn như lợi nhuận/tài sản (ROA) hoặc lợi nhuận/vốn sở hữu (ROE) khá cao so với các doanh nghiệp tư nhân trong nước còn lại. VPE500 có tác động lan tỏa về năng suất và lương tới các doanh nghiệp tư nhân trong nước, song có thể tạo ra tác động chèn lấn nhất định với doanh nghiệp tư nhân trong nước.

ROA, ROE của VPE500 có xu hướng giảm trong 3 năm trở lại đây, cho thấy hiệu quả sử dụng vốn và khả năng sinh lời của nhóm VPE500 niêm yết trên thị trường chứng khoán giảm. Đây cũng là xu thế chung của doanh nghiệp niêm yết và có thể do tác động của đại dịch COVID-19.

VPE500 đánh giá trên 3 tiêu chí: quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu thuần. Chỉ số sử dụng cho xếp hạng là trung bình cộng của thứ hạng theo 3 tiêu chí.

Cách xếp hạng này khác với cách xếp hạng của báo cáo hiện nay của Việt Nam (VNR500) hoặc của Fortune500 hoặc Top500 của Trung Quốc, trong đó chỉ sử dụng từng chỉ số riêng lẻ, nhưng giống với cách xếp hạng trong báo cáo 2007 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về 200 doanh nghiệp công nghiệp lớn nhất ở Việt Nam hoặc phần nào giống với cách xếp hạng của Forbes Global 200.

Đưa ra khuyến nghị, NCIF cho rằng, biến động của VPE500 là khá lớn trong danh mục giữa các năm, thời gian và tích lũy là hai yếu tố khá quan trọng trong định hình VPE500. Mức độ tập trung của khu vực VPE500 cao. Đóng góp doanh thu, tài sản đặc biệt cao ở một số ngành thâm dụng vốn. Phạm vi hoạt động của VPE500 rộng hơn, và nhiều tiềm năng vươn ra bên ngoài. Năng suất lao động không có sự vượt trội rõ rệt, sự tăng trưởng của VPE dựa trên mở rộng nguồn lực. Có mối liên kết với khu vực FDI và doanh nghiệp khác tốt hơn, tỷ lệ xuất khẩu cao hơn.

NCIF cũng cho rằng, thành lập doanh nghiệp mới nhiều nhưng chưa chú trọng tới tăng trưởng hình thành các tập đoàn lớn, điều này cần cải thiện và cần có chính sách riêng để thúc đẩy tăng trưởng ở nhóm này.

Hải Minh

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục