5 giải pháp thúc đẩy dòng vốn FDI giữa các nước Tiểu vùng Mekong

0:00 / 0:00
0:00
Tiểu vùng Mekong là khu vực kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng phát triển, tài nguyên khoáng sản phong phú, nhưng đầu tư trực tiếp nội bộ giữa các nước trong tiểu vùng còn hạn chế.
Diễn đàn Mekong lần thứ X với chủ đề “Đẩy mạnh hợp tác phát triển, phục hồi kinh tế hậu Covid-19 khu vực Mekong”. (Ảnh: K.T) Diễn đàn Mekong lần thứ X với chủ đề “Đẩy mạnh hợp tác phát triển, phục hồi kinh tế hậu Covid-19 khu vực Mekong”. (Ảnh: K.T)

Nhân 30 năm thực hiện Chương trình Hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc tiểu vùng Mekong mở rộng, chiều 23/9, Hội Phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN (VASEAN) tổ chức Diễn đàn Mekong lần thứ X với chủ đề “Đẩy mạnh hợp tác phát triển, phục hồi kinh tế hậu Covid-19 khu vực Mekong”.

Đây là hoạt động thường niên do Hội Phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN (VASEAN) tổ chức với sự ủng hộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Phát biểu tại Diễn đàn, PGS-TS. Bùi Tất Thắng, Phó chủ tịch, Tổng Thư ký Hội VASEAN cho biết, Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan và 2 tỉnh Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc), là khu vực kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng phát triển, tài nguyên khoáng sản phong phú.

Với sông Mekong dài hơn 4.800 km và vùng lưu vực rộng lớn, khu vực GMS có thế mạnh đặc biệt về sản xuất nông nghiệp, đóng vai trò là vựa lúa lớn nhất của thế giới. Năm 1992 với sáng kiến và sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), 6 nước đã tham gia Chương trình Hợp tác kinh tế tiểu vùng Mekong mở rộng, nhằm thúc đẩy kết nối và hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và phát triển thế mạnh của vùng.

Trong hơn 2 năm Covid-19 hoành hành vừa qua, nhiều nước trong tiểu vùng GMS đã phải đóng cửa biên giới, sản xuất kinh doanh trì trệ. Các lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là nông nghiệp, du lịch, thương mại. Tuy nhiên, hợp tác GMS vẫn đạt được những kết quả tích cực trong giai đoạn khó khăn này.

Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 8/2022, Việt Nam đã đầu tư vào 4 nước Tiểu vùng Mekong gồm Lào, Campuchia, Myanmar và Thái Lan 549 dự án (còn hiệu lực) với tổng vốn đăng ký 8,53 tỷ USD, chiếm tới 87% tổng vốn đầu tư của Việt Nam vào các nước ASEAN. Trong số đó, có 237 dự án đầu tư vào Lào với tổng vốn đăng ký gần 4 tỷ USD, 197 dự án vào Campuchia với tổng vốn đăng ký 3,2 tỷ USD, 109 dự án vào Myanmar với vốn đăng ký gần 1,3 tỷ USD, 16 dự án vào Thái Lan với vốn đăng ký 29 triệu USD.

Đầu tư của Việt Nam vào các nước Tiểu vùng Mekong tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực khai khoáng, nông lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, tài chính ngân hàng và bảo hiểm, bất động sản, bán buôn và bán lẻ...

Ở chiều ngược lại, tính đến tháng 9/2022, 4 nước Tiểu vùng Mekong đã đầu tư vào Việt Nam 707 dự án với tổng đầu tư 13,23 tỷ USD. Trong đó, Thái Lan là nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với 668 dự án có tổng vốn đăng ký 13,1 tỷ USD.

Đầu tư của các nước Tiểu vùng Mekong vào Việt Nam tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như công nghiệp chế biến - chế tạo, sản xuất phân phối điện, khí, nước, kinh doanh bất động sản, bán buôn và bán lẻ, nông lâm nghiệp và thủy sản dịch vụ lưu trú và ăn uống...

Theo TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE), đầu tư trực tiếp nội bộ giữa các nước Tiểu vùng Mekong còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Mặc dù dòng vốn FDI toàn cầu đã có xu hướng phục hồi từ năm 2021, song bên cạnh một số yếu tố thuận lợi, đầu tư trực tiếp nội bộ giữa các nước Tiểu vùng Mekong đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn.

Nêu lên một số giải pháp chính yếu để gia tăng quy mô và tốc độ di chuyển FDI nội bộ Tiểu vùng Mekong, TS. Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, thứ nhất, chính phủ và doanh nghiệp các nước cần nhận thức đầy đủ hơn về vai trò FDI đối với việc thúc đẩy hợp tác kinh tế Tiểu vùng, qua đó tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi và có chính sách hỗ trợ đầu tư lẫn nhau giữa các nước trong khu vực; thúc đẩy và đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào việc xây dựng cộng đồng ASEAN đầy đủ năm 2025.

Thứ hai, nâng cao khả năng chống chọi của nền kinh tế các nước trong khu vực trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, khắc phục tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng và thiếu hụt lao động chất lượng cao hiện đang diễn ra tại một số nước.

Thứ ba, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, nhất là môi trường pháp lý, minh bạch và đơn giản hóa thủ tục đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.

Thứ tư, tranh thủ sự hỗ trợ của các nước và tổ chức quốc tế trong việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là kết nối giao thông nội vùng, đảm bảo an ninh năng lượng gắn với chuyển đổi sang năng lượng sạch, hỗ trợ tăng cường năng lực cho tăng trưởng xanh, áp dụng kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, chống biến đổi khí hậu,…

Thứ năm, tăng cường trao đổi, cập nhật thông tin về chính sách thu hút đầu tư, tiềm năng và cơ hội đầu tư của các nước trong Tiểu vùng, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước tiếp cận thông tin và có sự hướng dẫn cần thiết về hợp tác đầu tư trong khu vực.

Thanh Huyền
baodautu.vn

Tin liên quan

Tin cùng chuyên mục